Được coi là mất tích từ 30 năm trước nhưng tên tuổi của Đại Cathay vẫn được lưu truyền và vì nể trong giới giang hồ. Hàng loạt huyền thoại đã được thêu dệt, biến Đại Cathay thành một ông trùm đầy quyền lực, một “vua không ngai” của thế giới tội phạm thời Mỹ - ngụy. Thực chất chiến tích lẫy lừng của hắn chỉ là những cuộc loạn đả, đâm chém nhau dã man của một kẻ coi thường luật pháp. Người hứng chịu đau khổ, không ai khác hơn, chính là những lương dân vô tội. Bài viết này không nhằm mục đích khai thác những chi tiết bạo lực đó, chỉ muốn giúp bạn đọc thấy rõ bản chất tội lỗi của kẻ đứng đầu cái gọi là “Tứ đại giang hồ” (gồm Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế) từng đua nhau tác oai tác quái một thời.
1. Lai lịch một ông trùm
Ngay cả đám giang hồ cộm cán, đám đàn em tin cẩn cũng không ai biết hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại Cathay cũng... không biết tên thật của mình nốt. Hơn chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai cho mình hơn chục lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn lúc là Lê Văn Cự, lúc lại là Trần Văn Trự... Mẹ của Đại Cathay cũng khá... nhiều tên, lúc là Hương, lúc là Duyên, sống hay chết thì “có trời mà biết”. Nói tóm lại, như Đại Cathay thường tự nhận, gã là một thằng... con trời có lẽ xuôi tai hơn cả.
Kỳ thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh thường gọi là bà Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng chiến, trở thành lính của “Mười ban tự vệ công tác thành”, sau đó bỏ vào chiến khu rừng Sác đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương (tức Dương Văn Dương). Đại sinh ra giống cha như đúc nhưng tuổi thơ rất ít được gần cha. Thuở nhỏ, gã sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội (nay là Đoàn Văn Bơ, quận 4). Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo, làm nghề chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ Cũ, quận 1. Đại thường xuyên trốn học chạy sang chơi với đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, rất “lì đòn”, những đức tính được “thừa kế” đầy đủ từ cha đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên luồn lách vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn.
Cuối năm 1946, ông Hai Cự bị địch bắt trong một lần về công tác nội thành, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng khác. Bố dượng Đại là một tay máu me cờ bạc lại nghiện thuốc phiện nặng nên gia sản dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con riêng của vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ học hẳn, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) - Nguyễn Công Trứ. Tại đó có một rạp chiếu bóng mang bảng hiệu Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại cứ lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân, mặt mũi đầy vết rách bầm. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm “tên đất” vào sau tên cúng cơm để trở thành Đại Cathay, “đại ca” đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954, lúc Đại mới 14 tuổi.
Trở thành “anh chị”, Đại được quyền sống mà không mó tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em “đi làm” mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh, Ba Tướng, Ba Gà (hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba Binh: kẻ quân sư, chuyên bày mưu tính kế; Ba Tướng: kẻ thực hiện, thường là những tên trực tiếp đi đánh nhau với các băng nhóm khác; Ba Gà: những tên “thuyết khách”, chuyên đi ngoại giao, thương lượng...) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận công việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho mình một khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Những đàn em không may bị ế báo, bị mưa ướt thuốc, kẹo phải đền tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới, đánh đập như những tên “chăn chíp” tham lam khác mà còn lấy của đứa “trúng mánh” cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và chịu nghe lời “anh Đại”. Tình trạng đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên.
Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót Cảnh sát quận Nhì - thường gọi là bót Dân Sinh - nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các ông cò bót quận Nhì xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẫn trơ trơ không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà, phú-lít lại đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra đòn độc để trị Đại Cathay, bắt đàn em của Đại đứng xem. Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm thả vào một con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ họng lao thẳng xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mật xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh xanh lè mắt, có đứa hét lên ngất xỉu và đái ra quần. Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, bắt đầu trấn tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không khai. Không còn cách nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại tế bần hoặc Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.
Ở miền Nam trước giải phóng, có bốn nơi được coi là “lò đào tạo du đãng”. Nơi thứ nhất là Trại nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ nhỡ nằm tại địa điểm nhà hát Hòa Bình hiện nay. Do nằm gần “Việt Nam Quốc Tự” nên sau này, nó được dân giang hồ gọi luôn là Trại “Việt Nam Quốc Tự”. Những đứa trẻ vào đây được cho ăn học, nhưng lại không được quản lý chặt nên những đứa hiếu động tha hồ ra vào, trốn đi trốn lại. Nơi thứ hai, Làng cô nhi Thủ Đức, điều kiện sống khá hơn nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám tiểu yêu phá phách. Những tên nhóc bất trị nhất, hai trại trên đều không chứa nổi thường bị cảnh sát lùa vào Trại giáo hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ là nơi nuôi báo cô đám du thủ du thực, chờ chúng đủ tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi thứ tư, Trại tế bần nằm bên kia cầu Trịnh Minh Thế (nay là cầu Tân Thuận), là một Trạm trung chuyển giam giữ những tên lưu manh sắp hết tuổi vị thành niên. Sau nửa tháng bị giam, nếu có người nhà bảo lãnh, đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được cho ra. Nếu không chúng sẽ bị nhốt lại, chờ đủ tuổi là tống vào đội quân “cưỡng bức phục vụ” tức lao công phục vụ chiến trường. Kẻ nào bị liệt vào hạng này coi như cầm chắc cái chết. Ngoài mặt trận, việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào công sự, trong khi chân không giày dép, hai người chung một sợi dây xích chân, muốn chạy cũng không được, mặc kệ mưa đạn vãi cả trước mặt lẫn sau lưng. Biết trước số phận “bia thịt” của mình nên đám du đãng vào trại tế bần chưa ấm chỗ đã tìm cách trốn. Lọt ra khỏi võng rào các trại, đám nhóc lại lần về với các băng nhóm du đãng, bụi đời.
Thực ra, các trại nói trên đều được mở ra với mục đích tốt đẹp là nuôi dưỡng, chăm sóc và dạy dỗ số trẻ em mồ côi, cơ nhỡ. Điều kiện cơ sở vật chất tuy còn thiếu thốn nhưng các trại cũng thật sự trở thành những mái ấm từ thiện cho những đứa trẻ bất hạnh lớn lên. Không ít người trong số họ đã ăn học thành tài, trở thành kỹ sư, bác sĩ, những công dân lương thiện. Nhưng đối với những tên nhóc tì vô tổ chức, các trại vì quá đông, không đủ sức kiềm giữ, quản lý nên chúng thường xuyên tìm cách trốn, vì không chịu tuân theo kỷ luật và điều kiện sống còn thiếu thốn. Hầu hết đám giang hồ Sài Gòn nổi tiếng sau này đều đã từng qua đủ các trại nói trên. Thuộc hàng vào ra như cơm bữa, Đại Cathay được liệt vào loại “tù con rạ”, để phân biệt với đám “tù con so” mới nhập trại lần đầu. ở các trại, Đại Cathay đã làm quen với những Của Gia Định, Lâm Chín ngón, Hắc Quảy chảy, Hòa áo thun... những chiến hữu đắc lực sau này trên chốn giang hồ.
Mỗi lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng liều lĩnh hơn, kinh nghiệm hơn, càng “tích cực” lao đầu vào những trận thư hùng - vốn là thứ năng khiếu nổi trội hơn cả ở hắn.
Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực Hãng phân Khánh Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ con khu vực này tiếp đón Đại Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân bến tàu, vựa cá, vựa rau cải - vốn có hạng trong nghề dao búa - đều bị Đại Cathay thu phục qui về dưới trướng. Dù giang sơn đã rộng, binh tướng đã nhiều nhưng Đại Cathay vẫn luôn giữ một nét mặt buồn buồn. Bỏ học từ bé, chữ nghĩa trong đầu Đại đã bị gió bụi lề đường thổi bay hết cả. Người thân còn lại duy nhất bên Đại là Phong khùng, vừa là đứa đàn em, vừa là ruột rà cùng mẹ khác cha. Đại hình như là Lê Văn Đại, còn thằng Phong, tên nó có phải là Trần Thanh Phong không, Đại cũng không dám chắc.
Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì toàn bộ khu vực Cầu Mống - Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu Da Heo, đều do một tay giang hồ nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. ở trần, quần dài vắt vai, đi đứng nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám Lâu bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đạp xích lô, nhưng thực chất Tám Lâu là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn thủ sẵn “hàng mã” (mã tấu), sẵn sàng vung ra bất cứ lúc nào, với bất cứ ai.
Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn quân đập lộn, Tám Lâu đâm “chịu” Đại Cathay. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu lại ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh “mần hơi cho ấm bụng”. Qua những lần nhậu ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay tuổi trẻ tài cao đầy hứa hẹn với đám giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng... Tám Lâu cũng thường đưa Đại đến các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng, hẻm Hai mươi thước để làm quen với các tay anh chị khu vực khác. Nể tình, Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm 110 Nguyễn Công Trứ để thăm hỏi Tám Lâu.
Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước uy thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh Hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã (tấu), đám này thường kéo rốc qua Cầu Ông Lãnh, tràn vào “thu thuế” giựt bà con tiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu không cản nổi.
Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ngắn than dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất:
- Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám này mới ngán!
Tám Lâu gạt phắt:
- Con nít biết gì? Tao còn thua nó, mày là cái
đinh gỉ!
đinh gỉ!
Tự ái, Đại Cathay bỏ về. Lúc này, đám Ba Binh, Ba Tướng của Đại cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường nhiều nên cũng khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn “chém bậy” vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến Tám Lâu và đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi Cầu Ông Lãnh, băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước với đàn anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình “trải đệm”, bất ngờ “luộc” băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả xung hữu đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xộc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại Cathay đã xỉa cho Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa.
Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn “tài ba” của Đại Cathay. Một mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, mặt khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê tất cả các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò rượu... trong khu. Có tiền, có quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm gió.
Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu tuy được ăn học đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo, tóc tai dị hợm. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí... giả trong khoản ăn chơi. Nhẵn mặt ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một đám sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzì Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này móc classic bản Sayonara rất “não nùng”)... và nhiều văn sĩ, nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ, trí thức cũng nể Đại Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã - trông bụi đời, hippi hơn cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng ra cùng với Bảy Si, bà Bảy Trà đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu Muối.
Ban đầu, Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung... mở nữa e không cạnh tranh nổi, Hoàng Sayonara vẽ:
- Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc, dân giang hồ, người buôn bán ngại vô. Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này.
Đại Cathay đồng ý. ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si (anh vợ Năm Cam - ông trùm sòng bạc sau này) đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại nống ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm khu Cây Da Xà. Hắn mua của Hùng Đầu bò một chiếc Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp “phơi” đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế. Đến năm 1962, 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng. Gần như hầu hết nhà hàng, khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều coi hắn như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi nhảy múa mà không một nơi nào dám viết hóa đơn, thậm chí còn lấy làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu cố.
Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không phải là từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là những kẻ tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Tàu là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các “vua”, Đại Cathay cũng làm quen, “chơi chịu” được với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.
Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi. Nhưng vẫn còn ba ông trùm “lừng lẫy” khác không ưa gì Đại Cathay, đó là Huỳnh Tỳ, ông trùm khu Lê Lai, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại “chơi kèo trên”, giành mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định “hội đồng” diệt Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World) cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ trường - có thêm Hùng phốc và Luân - hai giang hồ cộm cán khác hỗ trợ, mời Đại Cathay đến “bàn công việc”. Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống. Bốn kẻ phục kích cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương độc mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương. Cuối cùng, Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay mới nguôi giận, đồng ý “hòa giải”. Danh xưng “Tứ đại giang hồ” bắt nguồn từ đó, gồm tên Đại Cathay - kẻ không đối thủ - đứng đầu và ba tên đối thủ của... “không đối thủ” xếp nối theo sau. Thực ra, xếp thứ tự trong “Tứ đại giang hồ” là Ba Thế, một “chiến hữu” rất thân với Đại Cathay chứ không phải là Thế Aristo - kẻ đã từng dự mưu chém Đại. Chi tiết này, ngay trong giới giang hồ cũng nhiều tên nhầm lẫn, vô tình đánh đồng Ba Thế với Thế Aristo, khiến cho huyền thoại về “Tứ đại giang hồ” càng thêm gay cấn, ly kỳ.
2. Đế quốc Đại Cathay
Lẽ ra, với những thành tích bất hảo chồng chất lên nhau, Đại Cathay đã ngồi tù mọt gông từ những năm trước đó. Nhưng xã hội miền Nam đầy nhiễu nhương với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa làm gió. Vào thời đó, chức quận trưởng quận 1 trị giá 30 triệu đồng, trong khi lương lính chỉ hơn 300 đồng cho nên những kẻ đương chức chỉ tìm cách vơ vét, làm giàu để bù lại số tiền đã bỏ ra mua lon tước. Cò Ly, quận trưởng quận 1 còn cố tình dung túng cho Đại Cathay mở sòng bài, hoạt động bảo kê thu thuế. Bù lại, hằng tháng, Đại đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường nhà hàng sang trọng ăn chơi, đập phá thâu đêm. Đương nhiên, lương quận trưởng một năm cũng không đủ chi cho một lần nhất dạ đế vương nên ông cò chẳng bao giờ phải nghĩ đến chuyện móc hầu bao.
Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm.
So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm - Nhu, toàn bộ hoạt động kinh tài của các bang hội Hoa kiều Chợ Lớn đều có cổ phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút... đều do giới này quản lý hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11.1963, do tham lam, chính Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, “Con ngựa điên” đã bán đứng một số cơ sở kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là “cơ sở kinh tài của Diệm - Nhu”. Mặt khác, Tín Mã Nàm cũng tố cáo và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi Phoòng Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy... nhằm củng cố địa vị “Vua Hắc Đạo” của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ - Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.
Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một lượng lớn con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào Huê... về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo:
- Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ Lớn.
Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành, khách chơi, chính vì vậy mà họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo, không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn em “chiến đấu” nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm chín ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã Nàm vào hai buổi sáng chiều.
Cuộc tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vì nể. Tín Mã Nàm cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén mảng. “Con ngựa điên” phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị “trải đệm” nhưng Đại Cathay nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền. Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động, với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm “dzách bạc hồ hãn” (hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm, vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống.
3. Tiếp tay cho cảnh sát đàn áp tù chính trị
Trong chiến dịch bài trừ du đãng của cảnh sát ngụy năm 1966, cái tên Lê Văn Đại, tức Đại Cathay được liệt vào hàng “gian nhân hiệp đảng” đặc biệt nguy hiểm. Bản phúc trình ngày 15.6.1966 gửi Phó cảnh sát trưởng Trần Văn On có ghi rõ: “Tên Đại Cathay đã sống không nghề nghiệp từ năm 19 tuổi. Y đã kết hợp cùng một số thanh niên cùng tình trạng tổ chức những vụ chém lộn khắp vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Y đã hai lần tổ chức chém người tại khu Dân Sinh và Chợ Lớn. Ngoài ra, y cũng bị chém một lần tại đường Lê Lai. Đặc biệt, số người bị đánh chém cũng như đã chém y đều thuộc thành phần lưu manh du đãng...”. Vì vậy, dù không thu được chứng cứ cụ thể, Đại Cathay vẫn bị điệu ra tòa tiểu hình với tội danh du đãng đặc biệt và bị tống giam 45 ngày vào phòng 24 E, khu ED, trại Chí Hòa.
Khu ED gồm 2 dãy E và D. Dãy E gồm toàn loại anh chị lưu manh, tù hình sự nổi tiếng hung hãn. Dãy D là nơi giam giữ chính trị phạm, bộ đội giải phóng bị bắt... Mục đích của bọn cảnh sát ngụy khi đem giam chung chính trị phạm với đám lưu manh côn đồ là muốn mượn tay bọn đầu trâu mặt ngựa để đàn áp, bức bách tù chính trị. Chúng chọn trong đám lưu manh một số tên hung hãn nhất cho làm tự quản, được quyền giữ chìa khóa phòng giam, chìa khóa hành lang, tùy ý cho tù ra, vô phòng. Cả hai dãy E và D chỉ có một hồ nước lớn, đặt dưới dãy E. Khi đến giờ anh em tù chính trị, ngoài giặt giũ, lấy nước, đám tự quản thường khóa các cửa phòng dãy E lại, đề phòng đám lưu manh tràn sang khiêu khích đánh đập tù chính trị. Ngoài những tên tự quản, không một tù thường phạm nào được phép lai vãng vào giờ nghỉ.
5 giờ chiều ngày 25.8.1966, Đại Cathay đi hầu tòa về. Thay vì về phòng ngồi, hắn nói với Của Gia Định và Ngọc Heo, hai tên tự quản đang ngồi ôm đàn nghêu ngao hát:
- Trời nóng quá, tao tắm một phát.
Sợ đàn anh, hai tên tự quản vội vã lấy xà phòng cho Đại Cathay. Hung hăng, ngổ ngáo, Đại vục luôn cả đầu đầy xà phòng vào xô nước đang hứng của một bác chính trị phạm. Người tù chính trị nhỏ nhẹ trách:
- Nước ít, chú làm vậy coi đặng sao?
Vốn tính côn đồ, Đại tưởng ai cũng sợ mình. Hắn giang tay tát thẳng vào mặt người chính trị phạm và gầm lên:
- Mày biết tao là ai không mà dám cự nự?
Vài ba người tù chính trị khác đứng cạnh đó, dằn lòng không được, xông vào xô Đại Cathay ra. Tay anh chị cộm cán bộc lộ bản chất côn đồ, vừa đấm đá lung tung, vừa la toáng lên:
- Tụi nó đánh tao!
Từ trên lầu, Của Gia Định và Ngọc Heo nhảy vào trợ chiến, xông vào đánh những chính trị phạm này. Không nhịn được nữa, gần 100 chính trị phạm từ lầu 3D kéo ào xuống, nện nhừ tử ba tên du đãng. Mấy trăm tên du đãng bị nhốt trong dãy E náo động, la hét inh ỏi. Không may cho chúng, chìa khóa các phòng đều đang nằm trong người Ngọc Heo nên đành chịu chết, chỉ đứng sau song sắt buồng giam nện thình thình và la ó vang trời.
Ban đầu nghe ồn, tưởng thường phạm đánh chính trị phạm, bọn cai ngục vờ giả điếc, lúc này mới vội vã chạy xuống đưa ba tên du đãng đi cấp cứu. Mặt khác, chúng mở cửa phòng để cho hàng trăm tên thường phạm hung hãn vác hung khí ùa xuống xông vào đánh tù chính trị. Quân ít nhưng đoàn kết, anh em tù chính trị vừa đỡ đòn vừa dìu nhau rút về phòng, khóa chặt cửa cố thủ. Mảnh lu nước, gạch vỡ được cạy lên ném ra, anh em tù chính trị đã khiến không tên du đãng nào lọt vào được dù trong tay chúng có nào cán chổi sắt, gỗ thanh, nào dao...
Tình trạng hỗn loạn kéo dài đến tận đêm. Không những không can thiệp, bọn cai ngục còn cố tình tiếp tay và xúi giục bọn côn đồ. Chúng mở toang cửa dãy D cho bọn côn đồ mặc sức tung hoành, đập phá. 9 giờ tối, bọn giám thị phao lên: Đại Cathay, Của Gia Định, Ngọc Heo đã chết ở bệnh viện. Lập tức, toàn khám Chí Hòa náo động. Bọn lưu manh gom hết đèn cầy thắp sáng đêm hò hét vang trời đòi trả thù. Không nao núng, gần 100 chính trị phạm vẫn đoàn kết bao bọc nhau, cố thủ và đẩy lùi toàn bộ các cuộc tấn công hung hăng của gần 800 tù thường phạm. Đến sáng, khu ED phơi ngổn ngang dưới nắng một cảnh tượng như bãi chiến trường với gạch ngói, mảnh lu, vải rách và khá đông người bị thương của cả hai bên. Lúc này, bọn giám thị mới hoảng hốt, sợ tù hai bên sẽ phá banh khám. Chúng gọi cảnh sát dã chiến vào ốp đám thường phạm vào phòng. Bị kích động, đang say máu, đám thường phạm xông vào đánh luôn cả cảnh sát dã chiến. Hoảng hồn, những tên cai ngục phải cho xe lên bệnh viện chở 3 tên du đãng bị thương về. Khi Đại Cathay, Của Gia Định, Ngọc Heo đầu, tay quấn băng trắng nhăn nhở cười và bước vào, cuộc náo loạn mới chấm dứt. Kỳ thực anh em chính trị phạm chỉ bức xúc vì bị hành hạ nên đánh cảnh cáo chứ không vì thù hằn, không ra đòn nặng. Chính Đại Cathay sau đó cũng phải thừa nhận với đám giang hồ:
- Tụi mình bậy quá. Mấy ổng mà không nương tay, cũng chơi ác như mình thì ba thằng tao tiêu lâu rồi!
4. Du đãng đụng... nhà văn
Học đòi làm sang, Đại Cathay, Phong khùng, Lâm Chín ngón ưa rủ nhau đến “nằm bẹp” bên bàn đèn của tiệm hút Đông Kinh, đường Ngô Tùng Châu, quận 1 (nay là đường Tôn Thất Tùng). Tại đó, Đại làm quen và chơi thân một số dân văn nghệ như Tâm, con trai bà Bút Trà - chủ bút tờ Sài Gòn mới, Duyên Anh (tên thật là Vũ Mộng Long - chủ bút tờ Tuổi Ngọc) và Văn Quang - nhà văn kiêm đại úy tâm lý chiến - những dân chơi tìm “yên sĩ phi lý thuần” (từ lóng, đọc trại chữ in inspiration - cảm hứng) thường trực tại tiệm hút này.
Duyên Anh là một nhà văn khá nổi tiếng chuyên viết sách “xúi con nít đập lộn”. Sau nhiều lần “nằm bẹp” (tai) nghe Đại Cathay kể về cuộc đời du đãng của mình, Duyên Anh nổi hứng làm thơ tặng và đọc cho Đại Cathay nghe, trong đó có đoạn:
Mái tóc nâu vương niềm đau thương
Quần Blue Jean chung thủy bạc thời gian
Bastos xanh gắn chặt ngón tay vàng
Mái tóc bồng rối loạn nét hồn hoang
... Hè đại lộ Paso dồn dập overnight
Lê gót giày nghiến trầy lưng phố xá...
Thấy nhà văn này có vẻ “khoái giang hồ”, tả mình khá đúng, Đại Cathay ra chiều... cảm động. Để “lấy le”, tỏ ra ta đây “biết chơi”, Đại Cathay thường nèo kéo, rủ rê, bao Duyên Anh ăn nhậu, hút sách trước mặt đàn em tỏ vẻ ta đây hào phóng và biết quí trọng những người “làm nghệ thuật”. Duyên Anh tán dương Đại Cathay:
- Anh mã thượng như một nhân vật bước ra từ trang sách của Francoise Sagan.
Đại Cathay nở phồng cánh mũi, dù chẳng hiểu mô tê gì cả. Lúc về, Đại Cathay quay sang hỏi Lâm Chín ngón:
- Sagan là... ông nào vậy?
Biết đàn anh “bé cái lầm” Lâm Chín ngón vẫn không dám cười, cố tìm cách giải thích cho Đại Cathay hiểu, rằng không phải là “ông” mà là bà Sagan (!) - nhà văn ưa viết về đề tài bụi đời của Pháp, từng đoạt giải Nobel văn học. Nghe xong, Đại Cathay lấp liếm:
- Ông hay bà gì cũng xong, miễn chịu chơi là được. Phải có bả ở đây, tao kêu bà đi nhảy đầm. Viết được về giang hồ, muốn giải gì tao cũng chiều!
Tất nhiên, bà Sagan thì chẳng muốn nhưng Duyên Anh thì có. Sau một thời gian nằm hút chung với Đại Cathay, nhà văn khoái chuyện đập lộn này đã cho ra đời tiểu thuyết “Điệu ru nước mắt” với nhân vật chính lấy từ nguyên mẫu con người và tên Đại. Đọc xong cuốn sách, Đại Cathay bỗng dưng nổi cáu, hắn gầm lên:
- Thằng cha nhà văn này cà chớn, muốn chơi xỏ tao, viết bậy viết bạ. Tao làm đếch gì mà phải lụy đàn bà đến nỗi chết khô cả xác.
Mặc cho đám quân sư có học tốn công giải thích, rằng nhà văn họ có quyền hư cấu, Đại Cathay vẫn hằm hằm ra lệnh cho đàn em tìm Duyên Anh để “luộc”. Mối bang giao không ngờ kết thúc quá bi đát, Duyên Anh sợ vã mồ hôi vội cao chạy xa bay, giông tuốt lên Đà Lạt trốn hơn nửa năm liền. Rất may cho ông ta, cuối năm 1966, Đại Cathay bị cảnh sát tống ra đảo Phú Quốc và mất tích tại đó. Lệnh của hắn đương nhiên bị bãi bỏ. Lúc này, Duyên Anh mới dám quay trở lại Sài Gòn.
Không chỉ Duyên Anh, không ít nhà văn, nhà báo của chế độ cũ sau này cũng cố tình bới móc tìm hiểu cuộc đời, tính cách của Đại Cathay và thổi phồng lên, biến nó thành huyền thoại về một tên du đãng nghĩa hiệp và hào phóng, với những cuộc tình hết sức lâm ly bi ai. Bộ phim và bài hát cùng tên “Vết thù trên lưng ngựa hoang” khá nổi thập niên 1970 là một ví dụ điển hình.
Thực tế, sự "hào phóng", "chịu chơi", "nghĩa hiệp", chỉ là thứ trang sức lòe loẹt mà Đại Cathay cố khoác lên, đánh bóng cho mình. Tại khu Da Heo, Đại thường tỏ ra hào phóng với người nghèo, hay móc tiền quăng cho đám trẻ con đánh giày, bán báo để lấy tiếng. Bù lại, hắn đã dựng nên cả một hệ thống bảo kê, trấn lột đòi “thuế” của rất nhiều hàng quán khắp vùng quận Nhất, quận Nhì, quận Ba Sài Gòn; đã chỉ huy đàn em gây ra hàng chục, cả trăm vụ loạn đả, phá phách đánh chém nhau vô tội vạ mà hậu quả thường chỉ trút lên đầu những người dân thấp cổ, bé họng không hề có thù oán gì với hắn. Và, số tiền “từ thiện” mà Đại Cathay ném cho những đứa trẻ bụi đời trong những cơn cao hứng xem ra chỉ là hạt cát so với hàng núi tiền mà hắn đã quăng ra cùng đàn em hút xách, ăn nhậu, đập phá và bao gái trong những đêm nhất dạ đế vương thác loạn.
5. Giang hồ không có vua
Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng cả hai chân ra trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông gõ thùng xe loạn xạ...
Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến những kẻ tai to mặt lớn và cảnh sát ngụy hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Dùng luật không xong, nhiều quan chức ngụy tìm cách mua chuộc hắn.
Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ - có lẽ do muốn chơi trội - bèn cho gọi tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ:
- Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được.
Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn:
- Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?
Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt:
- Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi.
Đại Cathay vẫn ngổ ngáo:
- Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được...
Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô thành. Tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”, tuớng Sáu Lèo cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình Triệu (quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt giang hồ do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên giang hồ nào trên đường phố nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Sau một thời gian hoạt động, “Biệt đội hình cảnh” vẫn chỉ tóm được một số tên du đãng “tép riu”, tướng Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng “dĩ độc trị độc”. Đích thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của “ngài” chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá:
- Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng.
Đại Cathay từ chối:
- Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt.
Nguyễn Ngọc Loan hạ giá:
- Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành.
Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn quyền làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ vựa Cầu Muối, và hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc Loan nổi đóa:
- Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du đãng sẽ không còn đất sống!
Đại Cathay trả lời:
- Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được?
Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng, chính bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình.
Quá ngạo mạn, lại đang là giai đoạn cực thịnh của băng Cathay, Đại vẫn không hề biết điều đó, tiếp tục lộng hành. Không chỉ ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ.
Vào thời điểm đó, Sài Gòn ngập trong không khí sống gấp và hưởng thụ, không cần biết đến tương lai. Một trong những mốt thời thượng của các nhà buôn giàu có, các sĩ quan cộng hòa hào hoa, các công tử con nhà gia thế là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ với cave, nghệ sĩ trẻ đẹp. Đường đường là một vị tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để mắt tới các cô cave, ca sĩ phòng trà bình thường. Người ta thấy “ông tướng độc nhỡn” thường xuyên có mặt tại vũ trường Olympic trên đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7. Tại đó, Nguyễn Ngọc Loan là chủ nhân của một vưu vật: ca sĩ Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái, người được mệnh danh là “con nhạn trắng Gò Công”, lấy vũ trường này làm đất biểu diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân, viên tướng xách theo cả chục tên vệ sĩ thuộc hàng thiện xạ, cũng nổi tiếng ngổ ngáo và chịu chơi, phóng xe Jeep bạt mạng với những đường cua cong lề bạt phố, đạp phanh cháy cả mặt đường.
Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới. Hơn thế nữa, Thủy Tàu - tài pán vũ trường Olympic còn là một “mối” rất khoái Đại Cathay. Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hòa không khí, choáng lộn và êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm ba chiếc.
So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng Cathay luôn sẵn sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm cũng “kẻng” hơn, dĩ nhiên là được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Bị “gác kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn em vẫn phớt ănglê, coi như “chuyện tép”.
Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối - một tay cảnh sát ăn “rơ” với giang hồ kéo đến Olympic từ khá sớm. Thấy các đàn anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay, chí chóe cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới chừng nửa tiếng, cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo - không có chủ tướng đi cùng - xộc vào, cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không thấy cô cave nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẫn liên tục vọng sang tiếng cấu véo giỡn hớt rúc rích của băng Cathay với đám cave như thể trêu ngươi. Nổi cáu, cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện xạ tiến sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm:
- Vui vẻ quá, hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?
Vẫn không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất mặt:
- Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì?
Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng súng:
- Đừng chơi quê tụi này chớ!
- Thì đã sao? - Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng Cathay và đám cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích lệ, Hải Súng tiếp: - Thịt người tanh không ăn được, đừng dọa nhau, tụi này không thích!
Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn xấn xổ chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố:
- Không thích cũng bắt!
Sợ hãi, cô cave thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối thủ. Phản xạ nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô cave nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay hét lên:
- Tụi nó chơi súng, rút, tụi bay.
Pằng! Pằng! Pằng! ầm!
Đại chưa dứt câu, dàn đèn pha lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ tung tóe, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới, xô y gục xuống. Hải Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm Chín ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín ngón gào lên:
- Anh em rút đi, để tôi lo!
Lúc này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết. Thủy Tàu khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ trường đã hỗ trợ cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được Hải Súng và Ngân Pôcôn dìu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường. Lúc này, Lành Cầu Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả bọn lên xe chạy thẳng. Lâm Chín ngón chạy sau cùng. Sau khi nhả hết đạn, y cũng vội đu cửa sổ phóng xuống đường Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng, đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu.
Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh cho “Biệt đội hình cảnh” bắt, bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn. Núng thế, Đại Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng, Đại Cathay mới ngỏ ý:
- Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh...
Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng:
- Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu.
Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn:
- ồ, không, không! Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi, còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì.
Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời gian để bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một chiếc xe “be” chở gỗ không rõ xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần Kim Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng được biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim Chi để trả đũa.
6. Trại “Cửu Sừng” và vụ mất tích bí ẩn
Cái chết của đại úy Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than cuối cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8.1966, với tội danh “Du đãng đặc biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày 28.11.1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc.
Gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính xác, đây là nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”. Nó chính là một dấu ấn chứng tỏ sự bất lực của luật pháp ngụy quyền.
Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong vòng rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi “hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo:
- Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi.
Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất:
- Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó.
Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”.
Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo và cảnh sát ngụy, Trại “Cửu Sừng” chẳng những không “hướng” được chút “nghiệp” nào cho đám đầu trâu mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như Đại Cathay, Hải Súng, Hòa áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao... sau này đều là những tên giang hồ cộm cán nhất của Sài Gòn - Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn. “Trại Cửu Sừng” như một con dấu chất lượng để đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này đều trở thành đàn anh, được quyền ăn trên ngồi trốc trên chốn giang hồ.
Ngoài những huyền thoại về nghề đâm chém, Đại Cathay còn nổi tiếng nhờ khoản bồ bịch. Khi mới nổi danh, Đại cưới một cave nổi tiếng của vũ trường La Sarel tên là Thúy, được một đứa con gái. Sau Thúy, Đại lấy Hằng, cashier (thu ngân) của một vũ trường nổi tiếng khác ở Đà Lạt. Được ít lâu, Đại Cathay lại cặp kè với Lệ Hải, một nữ quái kiệt trong giới giang hồ.
Đám dân chơi có thời đồn ầm ĩ lên rằng, Lệ Hải si mê Đại Cathay đến nỗi một ngày chi cho “ông anh” hàng chục lượng vàng để ăn chơi đập phá, nhằm độc chiếm trái tim của tên du đãng ngoại hạng. Thực tế không phải như vậy. Lệ Hải là một cô gái khá ngổ ngáo, một đàn em của Đại Cathay trong nghề bảo kê đâm chém. Quan hệ của Đại Cathay với Lệ Hải chỉ là đàn anh, đàn em, hoàn toàn không có chuyện bồ bịch. Chuyện Lệ Hải chi cho Đại một ngày hàng chục lượng vàng lại càng không có nốt! Nguyên nhân của lời đồn chỉ là do một lần, đang nằm ở tiệm hút Đông Kinh, Đại Cathay ngẫu hứng muốn khoản đãi đám dân chơi một chuyến du hí Đà Lạt. Không mang tiền theo, Đại sai đàn em chạy đi kiếm Lệ Hải, nhà ở gần đó để mượn đỡ. Lệ Hải có mặt ngay tức khắc và đưa cho Đại Cathay mấy chục lượng vàng như yêu cầu. Tất nhiên, được phục vụ đàn anh với Lệ Hải đã là điều diễm phúc, cho nên công đoạn làm giấy ghi nợ hoàn toàn không xảy ra. Vậy là thành lời đồn đại.
Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), đối diện với vũ trường Olympic. Tân, anh trai cô Nhân là một bạn bàn đèn với Đại Cathay ở tiệm hút Đông Kinh. Sau nhiều lần cùng “nằm bẹp” tâm sự, Tân mời Đại Cathay về nhà chơi. Thấy Đại Cathay khen em gái mình đẹp, tỏ ra khá “mết”, Tân tuyên bố sẵn sàng gả em gái cho bạn. Cô Nhân thuộc loại tiểu thư con nhà giàu, cũng tỏ ra khoái phong cách giang hồ ngổ ngáo của Đại Cathay nên gật đầu. Vậy là nên vợ thành chồng. Đại và Nhân có với nhau một đứa con gái, nhưng rất ít khi Đại sống với vợ con. Lấy câu “bốn bể là nhà”, Đại Cathay suốt ngày lăn lộn ở các vũ trường, tiệm hút và mải mê đâm chém nhau ngoài đường, chẳng mấy đoái hoài tới vợ con. Là một dân chơi thứ thiệt, Nhân cũng mặc kệ, chẳng hề lấy thế làm buồn.
Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.
Đầu tháng 1.1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại “Cửu Sừng”. Gặp Đại Cathay cô báo cho chồng biết, đã lo cho xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất liền. Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại Cathay một chiếc áo bluson và dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng có một con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền Bắc màu đỏ, nửa miền Nam màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tôn, trong chợ Dân Sinh... chủ yếu để đám lính Mỹ sắp hồi hương mua về làm kỷ niệm.
Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo lưng áo hắn sờ thấy giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc xéo của tên sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho Đại Cathay mang về phòng.
Theo lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về phòng, Đại Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong đó. Với số vàng này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm ngơ khi Đại bỏ trốn.
Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có Xì kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón... Đến phút cuối, Đại Cathay nghe theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón - gã đệ tử thân nhất - ở lại. Đại nói với cả đám:
- Thằng Lâm lóc chóc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại, chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại, mình thoát rồi lo cho nó về sau an toàn hơn.
Trước giờ khởi sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo:
- Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách.
Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ. Phê thuốc, Lâm Chín ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7.1.1967, Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài.
Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Đạn vãi như mưa, hỏa châu bắn sáng trời. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột... bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng (tức Võ Văn Hải) vội đổi kế hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi Tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Đến đây, không ai còn tận mắt gặp lại Đại Cathay và Hải Súng. Và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất tích của hai tên du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện.
Giai thoại thứ nhất kể rằng: Đại Cathay đã trốn thoát khỏi đảo, cùng Hải Súng bơi ra tàu Hải quân chờ sẵn. Tàu về đến Cà Mau, bị Quân giải phóng tấn công khi đang tấp vào bãi bí mật. Sau trận đụng độ, Đại Cathay bị Cách mạng bắt sống. Được cảm hóa, anh ta trở thành một Giải phóng quân. Tết Mậu Thân năm 1968, Đại dẫn đầu một tiểu đội Quân giải phóng tấn công vào nội đô Sài Gòn từ hướng Tây và bị bắn ngã trước trại lính dù Hoàng Hoa Thám, gần Ngã tư Bảy Hiền. Một vài tờ báo chuyên săn tin giật gân ở Sài Gòn hồi đó còn chua thêm: “Tìm thấy trong tử thi một hộp quẹt Zippo khắc tên Trần Đại (Đại chuyên dùng loại quẹt Zippo trang bị cho lính Mỹ), một cuốn nhật ký mang tên Đại Cathay, trong đó anh ta kể lại đầy đủ chi tiết về đời du đãng của mình và tự nhận mình là nhân vật chính trong cuốn “Điệu ru nước mắt” của Duyên Anh từng nổi tiếng một thời.”
Tuy nhiên, những chi tiết mà báo chí nêu trên không hề được bất kỳ ai kể cả phía Cách mạng lẫn phía ngụy quân đứng ra xác nhận.
Giai thoại thứ hai nói rằng Đại Cathay đã trốn sang Thái Lan, sống mai danh ẩn tích ở Băng Cốc, đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ.
Giai thoại thứ ba do Hòa áo thun - cùng ngồi Trại “Cửu Sừng” với Đại Cathay kể lại, có vẻ hợp lý hơn cả. Sau chuyến vượt trại của Đại Cathay ít lâu, Hòa áo thun cũng tìm cách trốn trại khi được ra ngoài lao động. Trong thời gian lẩn trốn ở núi Tượng, Hòa áo thun đã bắt gặp hai ngôi mộ còn khá mới có bia mộ đẽo bằng gỗ mang tên Lê Văn Đại và Võ Văn Hải. Theo lời Hòa, hắn đã hỏi và được một số người ở núi Tượng cho biết: Đại Cathay và Hải Súng vì đói đã xông vào cướp bóc một số nhà xung quanh núi. Vì vậy, chúng bị du kích đang hoạt động ở đây bắn chết.
Chi tiết này được đại đa số giang hồ đã rửa tay gác kiếm xác nhận. Một số còn khẳng định rằng hai ngôi mộ mang tên Đại và Hải là có thật, họ đã từng đến thăm khi có dịp ghé ra Phú Quốc sau ngày giải phóng. Tuy nhiên, hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng tôi có được lại mang một nguyên nhân khác hẳn.
Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên du đãng làm bẽ mặt, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay. Khi biết cô Nhân - vợ Đại - đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục... Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Khi đi, toán biệt kích dù phải thay quần áo bà ba, đội mũ tai bèo, mang dép râu và sử dụng súng AK.47, giả trang làm Quân giải phóng để đổ vấy cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho phía Cách mạng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ, đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và gây dư luận. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn vụ việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay - tên du đãng ngoại hạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Đi tìm sự thật thực ra là một công việc vô ích vì sự thật sẽ tự tìm đến với chúng ta ,chỉ cần chúng ta có tâm tìm kiếm !
Nguyễn Linh
Bản quyền thuộc về Blog Tìm Lại Sự Thật ,khi đưa lại bài từ blog mong các bạn ghi rõ nguồn !
Bình luận đăng lên phải có chứng cứ rõ ràng ,không nên đăng những thông tin sai sự thật hay những bình luận có nội dung nhục mạ !