Ngay trong đoạn mở đầu của bức thư có những câu chữ rất ấn tượng :
Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.Trong đó , những người viết đã chỉ ra chúng ta đã xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô -viết là Sai lầm . Sau đó thêm rằng chúng ta còn vướng phải sai lầm hơn nữa là tệ quan liêu , tha hóa , thiếu dân chủ và tự do . Điều này làm tôi thực sự ấn tượng , mô hình Xô -Viết là gì , mô hình của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì , hẳn mọi người đều biết , con đường của chúng ta và con đường của những người Xô-Viết đều giống nhau , đều tiến lên Chủ nghĩa xã hội , nhưng chúng ta đã khác họ , khác từ 28 năm trước rồi , khi những người Xô-viết vẫn còn đắm chìm trong Cải tổ sai lầm , chúng ta đã bước vào thời kì Đổi mới , đúng hơn là thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Khi những người Xô-viết đang hoảng loạn vì chế độ bao cấp chấm dứt nhưng chưa có chế độ kinh tế mới thay thế , chúng ta đã kiên định đổi mới với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .
Trong bức thư của TBT Nguyễn Văn Linh gửi TBT Goóc-ba-chốp đã viết :"Đường lối của Đồng chí là sai lầm và sẽ hủy hoại Liên Xô " Chúng ta đã khác xa Liên Xô , khác xa nền kinh tế Xô -Viết rồi .
Vậy mà 61 đảng viên lão thành không nhận ra điều đó , họ chỉ coi cuộc Đổi mới vĩ đại của dân tộc chỉ là thay đổi nhỏ , vâng , có lẽ họ chỉ coi như thế , họ đã nhầm tưởng , họ hoàn toàn không thích ứng được với cuộc Đổi Mới mà toàn dân tộc đang tiến hành với sự lãnh đạo của Đảng , họ không biết Đổi Mới đã tiến hành sâu rộng ra sao . Họ đã lạc đường !
61 Đảng viên kì cựu của Đảng ta , 61 người con ưu tứ của Dân tộc ta kia đã lạc đường . Tôi không nói họ phản bội hay phản động , tôi không coi những gì họ nói là phản động , tuy nhiên tôi tiếc thương những con người như thế không thể hòa vào thời cuộc của cả dân tộc để sáng tạo lên kì tích mà con cháu chúng ta sẽ phải tự hào .
Những con người cổ hủ , những con người không thể nhận ra được sức mạnh của Đổi Mới như ông Nguyễn Trọng Vĩnh , Đào Xuân Sâm đã dừng lại khi cả dân tộc đang bước đi đến tương lai .
Tuy nhiên họ cũng đã phải thay đổi , những con người lạc đường , những con người bị công cuộc Đổi Mới bỏ lại phía sau đã bàng hoàng nhận ra họ đang đi chậm , và họ cố gắng để đi thật nhanh bắt kịp thời đại, nhưng tiếc thay họ quả thật đã lạc đường . Họ đã bị rơi vào cái bẫy do những kẻ khác lôi kéo , họ đi theo quan điểm sai lệch và cuối cùng đã tự cách ly ra khỏi dân tộc ,tự tách mình ra khỏi thời đại rồi quay sang chống lại thời đại , chống lại dân tộc ,chống lại nhân dân , tất nhiên là họ không nhận ra điều đó , họ không nhận thức được điều đó , nhưng điều đó là sự thật ,những người bị Đổi Mới bỏ lại đã quay sang chống lại Đổi Mới .
1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.Nếu như ở trên chúng ta đã nhận ra họ đang mắc sai lầm và lệch lạc về quan điểm đổi mới , tư duy của họ không phù hợp với nhận thức của thời đại , thì nay chúng ta còn có một nhận thức mới : Họ đã trở lên hoang tưởng hay đúng hơn là mất hết , mất sạch trí tuệ chính trị của mình .
Có lẽ những con người đó từng là tinh anh của dân tộc , nhưng giờ đây , họ đã tự hủy đi tinh anh của họ . Một Đảng cộng sản chỉ có thể là 1 Đảng cộng sản nếu như họ vẫn đấu tranh để xây dựng Chủ nghĩa xã hội , nếu từ bỏ cương lĩnh đó , Đảng chẳng còn là gì hết .
Vì vậy bức thư ngỏ của 61 "đảng viên kì cựu " kia đơn thuần chỉ là tờ giấy bẩn nếu như họ hoàn toàn không biết họ đang viết gì , và chẳng phải của đảng viên nếu như họ viết với mục đích duy nhất là chống lại Đảng .Nếu như nguyên nhân thứ nhất , họ không có nhận thức là họ đang nói gì , vậy thì chẳng còn gì để nói , hãy cứ để họ ở đấy và chúng ta sẽ luôn nhớ đến những Đảng viên ưu tú ấy , những chiến công mà họ đã từng cống hiến cho sự nghiệp của Dân tộc . Nhưng nếu là nguyên nhân thứ 2 , nếu họ thực sự ẩn sau những câu chữ hào nhoáng kia một mục đích duy nhất là Giải tán Đảng cộng sản Việt Nam , chúng ta cũng không còn có yêu cầu nào khác ngoài yêu cầu họ tự ra khỏi hàng ngũ của Đảng , vì điều lệ Đảng đã viết :"Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng."
Là người chủ của đất nước , chúng tôi cần được biết về những gì đã xảy ra . Điều này là hoàn toàn hợp lí . Tuy nhiên thạt hài hước là ông Nguyễn trọng Vĩnh và Đào Xuân Sâm cùng 59 người khác không thể nhận ra rằng những thứ mà họ cần luôn có trên mạng , cụ thể ở trang web http://biengioilanhtho.gov.vn/sites/vi/Home.aspx , trang web của ủy ban biên giới . Còn về thỏa thuận Thành Đô , thật đáng buồn nhưng trong bất cứ tài liệu Trung-Việt nào đều không đề cập đến có một bản thỏa thuận nào khác ngoài đàm phán bình thường hóa quan hệ Việt -Trung mà bất cứ cá nhân nào đều biết .2. Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa thuận, hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…
Chính sự lạc hậu ,cổ hủ , lỗi thời trong tư tưởng của họ đã được thể hiện trong yêu sách buồn cười đến như vậy . và nếu họ vẫn tiếp tục ra yêu sách nực cười như thế thì chẳng khác nào tự tay bịt mắt rồi kêu trời không sáng . đáng thương thay .
Kết : tôi tỏ ra nghi vấn về tính xác thực của bức thư ngỏ , bởi lẽ không hề có bất cứ chữ kí nào khả dĩ chấp nhận được trong văn bản được cho là thử ngỏ mà tôi có được :
Không hề thấy chữ kí của
1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.
2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.
6. Tạ Đình Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.
9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.
10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.
11. Hà Tuân Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.
13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
14. Tô Hòa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.
15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.
16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.
17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.
18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.
20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.
22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.
24. Nguyễn Kiến Phước, vào Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
26. Võ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.
28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
29. Hạ Đình Nguyên, vào Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư ký của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh
31. Lê Công Giàu, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu tư TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
32. Kha Lương Ngãi, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.
33. Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.
35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Lữ Phương, vào Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Lê Thu An, vào Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
39. Trần Văn Long, vào Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.
41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.
42. Võ Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.
43. Hà Quang Vinh, vào Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.
44. Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Động tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, TP. Huế.
45. Lê Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
46. Chu Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.
49. Cao Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.
50. Lê Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.
51. Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.
52. Trần Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.
53. Hồ An, vào Đảng năm 1979, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh.
54. Đoàn Văn Phương, vào Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí Minh.
55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
56. Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
57. Lê Văn Luyến, vào Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1997, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
61. Nguyễn Nguyên Bình, vào Đảng năm 1986, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.
THƯ GỬI RẬN I! (TTNGUYEN)
Trả lờiXóa"...Như những kẻ biến thái
Núp vào toilet học đường
Nhả những mộng tưởng ái ân bệnh hoạn
lên tường
Nhà rận chủ "yêu quê hương"
Rúc đầu vào hố xí của chế độ
Tay bịt mũi, mồm đòi quyền tự do được thở
Kiến nghị
khiếu kiện
dân oan
thay cuộn giấy lau chùi..
Vê đúp Cờ (WC)
hai chữ nặng mùi
nhưng chứa đựng bao tâm tình nhà rận chủ
Bên kia đại dương, Hoa Thịnh Đốn không ngủ
Hố xí này quyết tử thủ đấu tranh..."
hay
XóaDanh sách này phần lớn là những người đã có tuổi. Họ đã có những đóng góp nhất định cho công cuộc xây dựng CHủ Nghĩa Xả Hội của Việt Nam. Đặc biệt, Giáo sư kiệt xuất Hoàng Tụy là người đóng góp rất lớn cho pháp triển toán học ở Việt Nam. Ông từng là một trong những nhà toán học xuất sắc nhất của Thế Giới. Ngoài ra, các ông Lê Đăng Doanh, Nguyễn Trung, bà Phạm Chi Lan cũng đã có nhiều đóng góp trong thời kỳ đổi mới.
Trả lờiXóaCỔ TÍCH CÁI THẰNG CHĂN CỪU:
Trả lờiXóaCó cu kia đi chăn cừu. Lâu lâu cu lại la làng: Chó sói bắt cừu, chó sói bắt cừu...
Người ta đổ ra nhằm cứu giúp. 3 lần như thế người ta đều thấy cu đang cúi lạy chó sói. Chó sói thấy đông người bèn bỏ đi.
Lần thứ 4, chó sói lại đến bắt cừu. Cu ta lại la: Chó sói bắt cừu, chó sói bắt cừu... Cả làng nghe thấy nhưng chẳng ai ra. Họ bảo nhau, ra làm gì, nó lạy là sói đi ngay ấy mà.
Nhưng lần này lạy như bổ củi, năn nỉ rằng vì đại cục với tiểu cục, sói nó cũng không tha vì không thấy ai ra nữa. Lũ cừu bị thịt mất, cu chăn cừu khóc như mưa. Thương ơi là thương
(lượm lặt, xào nấu lại từ facebook của một người bạn, mong "thôn cổm").
LỜI BÀN: Ba lần sói bỏ đi chẳng phải vì cảm động gì mấy cái lạy của Cu, mà vì đông người xúm lại cũng ngại. Còn Cu thì không biết quá ngây thơ hay quá ngu, đã yếu thế lại cứ vênh mặt ta đây dương dương tự đắc không thèm một lời cám ơn làng xã đã bỏ công vì mình. Và hậu quả tất yếu xảy ra
Nghe đâu kể từ đó, cả làng đặt chết tên cho cu là CU LÚ...