Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013
Hải Chiến Hoàng Sa: Báo GDVN và sự đổ thừa của VNCH
Đã 39 năm qua, Quần đảo Hoàng Sa thân yêu của chúng ta nằm trong tay trung quốc. Từ đó đến nay, “nỗi nhớ” Hoàng Sa vẫn rực cháy trong tim mỗi người VN. Và cũng từng thời gian đó nhà nước VN vẫn đang tìm mọi cách đấu tranh đòi lại những gì của tổ tiên chúng ta bao đời dựng xây để lại cho con cháu hôm nay.
Nhân đọc bài viết trên báo giáo dục:của tiến sỹ Trần Công Trục. Sau khi theo dõi 6 bài đầu tiên của bài viết này, tôi nhận thấy: Loạt bài của tiến sĩ Trần Công Trục có nội dung rất giống với bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc, nguyên Hải đội trưởng Hải đội III Tuần dương của Hải quân VNCH. Có thể nói không ngần ngại rằng, tiến sĩ Trần Công Trục chỉ biên tập lại bài viết của đại tá Hà Văn Ngạc, mà không có kiểm định kĩ càng, dẫn đến sai lệch sự thật. Cách dùng từ trong bài viết của tiến sĩ Truc cũng không còn phù hợp với độc giả hiện nay. Rõ ràng, việc sử dụng nguồn sử liệu của chế độ cũ (VNCH) cần một cái nhìn khách quan và thấu đáo, để tránh xảy ra nhứng sai sót hay ngộ nhận
Xem chi tiết bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc của VNCH tại địa chỉ:http://www.congdongnguoiviet.fr/index.php?option=com_content&view=article&id=955%3Atthchs&catid=71%3Abdc&Itemid=95
Nhiều vấn đề bất hợp lí
Ở đây, xin đề cập đến hai điểm bất hợp lí, có thể nói là bịa đặt của Đại tá Hải quân VNCH Hà Văn Ngạc. Đại tá Ngạc đã mất năm 1999, nên không loại trừ khả năng các thế lực thù địch đã mượn danh ông để xuyên tạc sự thật.
Trước hết, bài viết cho rằng: Trung Quốc đã sử dụng các tàu tên lửa cao tốc Komar (Đề án 183R) của Liên Xô để tấn công, khiến hải đội tàu VNCH buộc phải rút lui. 4 tàu tên lửa loại này cũng đã được Liên Xô viện trợ cho Hải quân Nhân dân Việt Nam trong năm 1972, nên cũng rất quen thuộc với các sĩ quan hải quân của ta. Tàu có vỏ bằng gỗ, khung và thượng tầng là hợp kim nhôm, nặng 66,5 tấn, thủy thủ đoàn 17 người, tốc độ tối đa 44 hải lí/h. Tàu tên lửa cao tốc Komar được trang bị 2 bệ phóng tên lửa diệt hạm P-15 Termit, có tầm bắn 40km và một pháo 25mm nòng đôi. Tuy nhiên, đây là loại tàu rất nhỏ, chỉ bắn được tên lửa trong điều kiện tối đa là sóng cấp 4. Quan trọng hơn, tàu khó có thể hoạt động trên biển lâu hơn 1 ngày, để tránh thời tiết xấu. Do đó, việc tàu tên lửa cao tốc Komar xuất hiện trong trận Hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 là không chính xác!
Thứ hai, bài viết có đề cập đến chi tiết 4 máy bay MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc đã ném bom quần đảo Hoàng Sa. Đây tiếp tục là một điều bịa đặt. Bởi lẽ, Trung Quốc không hề có hai loại máy bay và MiG-23. Máy bay MiG-23 cất cánh lần đầu ngày 10-6-1967, khi đó quan hệ Xô – Trung đã có nhiều rạn nứt, nên Liên Xô đã cắt viện trợ, và rút chuyên gia về nước. Trung Quốc có thể có một số máy bay MiG-23 thông qua việc mua bán bí mật với Ai Cập, song họ không thể đưa loại máy bay này vào biên chế trực chiến.
Còn về mig21 thì không đủ cự ly tác chiến ớ HS trừ khi phi công ném bom xong nhảy dù đào thoát.
Xem lại thông tin này: Ngày 20/1/1974 máy bay Mig 23,21 TQ oanh tạc Hoàng Sa?
Năm 1969 Trung -Xô dàn cả triệu quân đánh nhau tàn bạo ở biên giới.
Đảo cù lao Trân Bảo thuộc Liên Xô, TQ đánh chiếm. Hai bên đánh nhau, LX giành lại được đảo.
Sau xung đột biên giới 1969 Mao Trạch Đông leo lẻo chửi ban lãnh đaọ Liên Xô là tập đoàn xét lại liên Xô.
Liên Xô không có bán vũ khí cho TQ giai đoạn này mà 1974 TQ có Mig 21 &23 để oanh tạc Hoàng Sa? TQ chỉ có Mig 17 mà Liên Xô trang bị cho trước đó.
Nếu là tài liệu của VNCH thì cũng chỉ là tào lao, muốn đổ cho TQ quá mạnh nên VNCH không giành lại được Hoàng Sa.??? (Không quân VNCH xếp hàng thứ 3/ thế giới đâu sao không dùng giành đảo?)
TQ không thể có Mig23. giai đoạn 1969-1974./
Không quân Trung Quốc thời điểm đó chỉ có các máy bay J-7, là một phiên bản sao chép lại của máy bay MiG-21. Song J-7 chỉ là một máy bay tiêm kích đánh chặn, bán kính chiến đấu của nó chỉ vào khoảng 450-500km. Đây là con số dành cho nhiệm vụ tiêm kích đánh chặn, và con số này sẽ giảm mạnh khi máy bay mang bom. Trong khi đó, khoảng cách từ các sân bay gần nhất của Trung Quốc trên đảo Hải Nam đến quần đảo Hoàng Sa là 230 hải lí, tức 430km! Đây cũng là chỉ là con số lí tưởng. Trong khi đó, chiến sự lại diễn ra chủ yếu ở khu vực đảo Duy Mộng và Quang Hào, nằm sâu về phía Tây Nam quần đảo, nên khoảng cách tác chiến của không quân Trung Quốc lớn hơn nhiều. Nói cách khác, máy bay của Trung Quốc không đủ tầm bay ra Hoàng Sa. Quân Trung Quốc thời điểm năm 1974 chưa có năng lực tiếp dầu trên không, nên không thể đưa máy bay chiến đấu J-7 ra quần đảo Hoàng Sa tham chiến, trừ phi bay đi ném bom và nhảy dù bỏ máy bay!
Từ đó, ta có thể thấy: Bài viết của Đại tá VNCH Hà Văn Ngạc có nhiều chi tiết là bịa đặt. Việc tiến sĩ Trần Công Trục và báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải các tài liệu này là hành vi xuyên tạc lịch sử.
Thực ra quần đảo HS dã bị mất trong đó có sự tiếp tay đi đêm của mỹ.và sự hèn nhát bạc nhược của sỹ quan binh lính VNCH.lực lượng tác chiến VNCH lúc đó vượt trội hơn hắn trung quốc.
Chưa nói tới lực lượng không quân thứ 3 thể giới với hàng trăm máy bay f5.a37 đủ sức tác chiến vươn tới HS.nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra.
Để bạn đọc tham khảo, xin đưa ra bài viết của Trung tá Hải quân VNCH Lê Văn Thự, người trực tiếp tham gia trận đánh.
Xem chi tiết bài viết của Trung tá Hải quân VNCH Lê Văn Thự tại địa chỉ: http://danluan.org/tin-tuc/20130119/le-van-thu-su-that-ve-tran-hai-chien-hoang-sa
Theo đánh giá của tôi, tuy góc nhìn của Trung tá Lê Văn Thự chưa đầy đủ, nhưng đã phản ánh được khá chính xác sự thật lịch sử diễn ra trong trận Hải chiến Trường Sa 19-1-1974. Trung tá Lê Văn Thự đã thẳng thắn nhìn nhận sự thật, thừa nhận nhiều hạn chế của bản thân, cũng như những thiếu sót của hải quân VNCH trong thất bại tại quần đảo Hoàng Sa. Đó là thái độ cầu thị của một con người có lương tâm, trách nhiệm và tự trọng. Trung tá Thự cũng đã chỉ ra nhiều điểm sai sự thật trong bài viết của Đại tá Hải quân VNCH Hà Văn Ngạc.
Sự thật về trận Hải chiến Hoàng Sa
Trong thời điểm nổ ra chiến sự, lực lượng phía Hải quân Trung Quốc có 6 tàu chiến. Trong đó, lớn nhất là hai tàu săn ngầm Kronstadt (Đề án 122bis) của Liên Xô, nặng khoảng 300 tấn, tốc độ tối đa 20 hải lí/h, vũ khí (không tính các vũ khí chống ngầm không có giá trị trong hải chiến) có 1 pháo 85mm và 3 pháo 37mm. Đây là các pháo lưỡng dụng vừa phòng không, vừa chống tàu. Tiếp đó là 2 tàu quét mìn T.43 sao chép từ mẫu tàu quét mìn SO-1 (Đề án 201) của Liên Xô, nặng khoảng hơn 200 tấn, tốc độ tối đa 25 hải lí/h, vũ khí chống tàu có 2 pháo nòng kép 57mm và 2 pháo nòng kép 25mm. Ngoài ra, còn có hai tàu đánh cá mang pháo 25mm và một tàu vận tải cỡ trung.
Trong khi đó, phía Hải quân VNCH tung vào trận 4 tàu chiến: khu trục hạm HQ-04 Trần Khánh Dư, nặng khoảng 1.590 tấn, tốc độ tối đa 21 hải lí/h, vũ khí có 3 pháo bắn nhanh 76mm điều khiển bằng radar, 1 pháo 40mm nòng kép và 8 pháo phòng không 20mm. Hai hộ tống hạm HQ-05 Trần Bình Trọng và HQ-16 Lý Thường Kiệt, nặng khoảng 2.500 tấn, tốc độ tối đa 20 hải lí/h, vũ khí có 1 pháo đa năng 127mm, 1 cụm 4 pháo phòng 40mm, 2 pháo nòng kép 40mm và 6 pháo phòng không 20mm. Tàu quét mìn HQ-10 Nhật Tảo, nặng 650 tấn, tốc độ tối đa 15 hải lí/h, vũ khí chống tàu có 1 pháo 76mm, 4 pháo 40mm và 6 pháo phòng không 20mm.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ: Phía Hải quân VNCH chiếm ưu thế tuyệt đối về hỏa lực. Trung Quốc không có pháo 127mm mà phía VNCH có. Trung Quốc chỉ có 2 pháo 85mm, VNCH có 4 pháo 76mm, trong đó khu trục hạm HQ-05 mang 3 pháo 76mm được điều khiển bằng radar, có tốc độ bắn cao 20 phát/phút. Trung Quốc chỉ có 4 nòng pháo 57mm, 3 pháo 37mm, VNCH có 22 nòng pháo 40mm. Trung Quốc chỉ có 8 nòng pháo 25mm, VNCH có 26 pháo 20mm! Thực sự, chỉ cần mình tàu HQ-05 tham chiến, thì đã có thể đánh chìm toàn bộ 6 tàu Trung Quốc bằng các pháo bắn nhanh 76mm.
Vậy tại sao phía VNCH lại thất bại? Theo dữ liệu từ bài viết của Trung tá Lê Văn Thự, ta phần nào hình dung ra sự việc:
Trước hết, lực lượng tham chiến thực sự trong Hải chiến Hoàng Sa chỉ là hai tàu HQ-10 và HQ-16. Hai tàu HQ-04, HQ-05 chỉ đứng ngoài quan sát, và sau đó rút lui khi HQ-10 bị đánh chìm. Nếu như các tướng lĩnh VNCH không quá hèn nhát, thì có thể hiểu rằng: Đây là lực lượng dự bị mạnh của Hải quân VNCH, để sẵn sàng đối phó với những tình huống bất ngờ có thể xảy ra, khi phía Trung Quốc điều quân tăng viện.
Phát hiện thấy các tàu Trung Quốc co cụm trong khu vực lòng chảo Hoàng Sa, chỉ có hai đường ra vào, trung tá Lê Văn Thự đã lên kế hoạch: Hai tàu HQ-10 Nhật Tảo của thiếu tá thuyền trưởng Ngụy Văn Thà, và HQ-16 Lý Thường Kiệt của trung tá thuyền trưởng Lê Văn Thự chia nhau chặn hai đường ra vào lòng chảo Hoàng Sa, nhốt các tàu Trung Quốc ở trong để tiêu diệt. Sở dĩ phải làm vậy, vì các tàu của Hải quân VNCH lớn hơn rất nhiều tàu Trung Quốc, và di chuyển chậm chạp hơn. Đánh tàu địch ở thế trận đó sẽ vô hiệu hóa sức cơ động cao của các tàu nhỏ Trung Quốc. Dĩ nhiên, chỉ hai tàu HQ-10 và HQ-16 cũng đã là quá mạnh so với lực lượng Trung Quốc. Tàu HQ-10 Nhật Tảo bé nhất hải đội VNCH, nhưng cũng lớn gấp đôi tàu chiến Kronstadt của Trung Quốc.
HQ-16 mở màn trận đánh, khai hỏa trước ở cự li khoảng 4 hải lí, sau đó là HQ-10. Sau khoảng 20 phút, một tàu Kronstadt mang số hiệu 274 của Trung Quốc đã bị đánh cháy, buộc phải bỏ chạy. Nhưng không ai ngờ, HQ-16 bị trúng đạn pháo 127mm của … chính tàu HQ-5! May mắn là viên đạn không nổ,("May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ! Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn.")
song tàu bị thiệt hại nặng, hỏng một máy, buộc phải rút lui bảo toàn lực lượng. Phía Trung Quốc dồn sức đánh vào tàu yếu hơn là HQ-10, đánh chìm tàu này, khiến Thiếu tá thuyền trưởng Ngụy Văn Thà tử trận.
Hành động của hai tàu HQ-04 và HQ-05 thật đáng ngờ! HQ-04 là tàu hiện đại nhất của hải đội, đủ sức đánh bại toàn bộ đội tàu Trung Quốc, nhưng lại đứng nhìn, không hề có các động thái chi viện cho đồng đội. HQ-05 thì khai hỏa bắn hỏng tàu HQ-16! Có thể nói rằng, trong trận đánh này, công của Hải quân Trung Quốc rất nhỏ, công lao chủ yếu dành cho tàu HQ-05 đã bắn hỏng tàu HQ-16, và có thể là cả HQ-10. Sau trận chiến, HQ-04 và HQ-05 tháo chạy về phía căn cứ Subic của Philipine, chúng không hề bị trầy sơn, chứ đừng nói đến tham chiến hay trúng đạn của tàu Trung Quốc. Thực tế, chỉ có hai tàu HQ-10 Nhật Tảo và HQ-16 Lý Thường Kiệt thực sự chiến đấu với 6 tàu Trung Quốc, và họ đã giành chiến thắng, nếu như không có phát đạn 127mm bắn hỏng tàu HQ-16, và có thể là cả tàu HQ-10.
Trung tá Lê Văn Thự cũng chỉ rõ hàng loạt sai sót của Hải quân VNCH trong trận đánh này, có thể trích ra như sau:
- Không sử dụng những phương tiện hiệu quả để đối phó với tàu Trung Quốc. Các tàu HQ-10, HQ-16 của VNCH đều là tàu lớn, di chuyển kém linh hoạt, vũ khí bắn thủ công kém chính xác. Thủy thủ đoàn chưa quen hải chiến, mà chỉ quen yểm trợ hỏa lực cho bờ biển. HQ-04 là loại tàu chiến hiệu quả để tác chiến với tàu Trung Quốc, có hỏa lực cực mạnh đủ sức đánh chìm cả 6 tàu, nhưng lại đứng ngoài.
- Không có bác sĩ trên tàu, binh sĩ bị thương không được chăm sóc đầy đủ, nên đã thiệt mạng vô ích.
- Đưa biệt kích lên giữ đảo, nhưng không hề chuẩn bị lương thực, đạn dược, không có biện pháp tiếp tế để đảm bảo bám trụ lâu dài. Khi hải quân VNCH rút lui đã bỏ mặc toán biệt kích trên đảo, khiến họ phải vượt biển bằng bè, và 1 người đã chết trên biển vì khát nước.
Không quân VNCH ở đâu?
Thái độ đáng ngờ của các tàu HQ-04, HQ-05, cùng hàng loạt biến động chính trị giữa ba cường quốc Mỹ - Xô – Trung trong giai đoạn này, khiến ta đặt dấu hỏi: Liệu VNCH có thực sự quyết tâm bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Trong hoàn cảnh đó, kể cả khi hải quân thua trận, thì phía VNCH hoàn toàn đủ sức tiêu diệt hết các tàu Trung Quốc bằng không quân. Họ có đội máy bay cường kích lớn thứ ba thế giới, chỉ sau hai siêu cường Mĩ và Liên Xô. Khoảng cách từ Đà Nẵng ra quần đảo Hoàng Sa là khoảng 200 hải lí, tức khoảng 370km, nằm trong tầm tác chiến của hai loại máy bay F-5 và A-37, mà không quân VNCH có hàng trăm chiếc. Máy bay tiêm kích hạng nhẹ F-5 có bán kính chiến đấu 1.400km, mang được 3.200kg vũ khí gồm tên lửa không đối không và bom, rocket các loại. Máy bay cường kích A-37 có bán kính chiến đấu 740km, mang được 1.230kg bom và rocket.
Và cũng cần nói thêm rằng, hỏa lực phòng không của các tàu chiến Trung Quốc gần như là con số không. Họ thậm chí không có radar phòng không hay radar điều khiển hỏa lực, mà đơn thuần là các pháo phòng không 57mm, 37mm và 25mm bắn thủ công, với tốc độ chậm. Không quân VNCH thừa sức tiêu diệt các tàu này, nhưng một trận đánh phục thù giành lại Hoàng Sa đã không diễn ra, đó là vì sao.
Kí ức buồn này cũng đã được phi công Nguyễn Thành Trung kể lại.
http://sgtt.vn/Loi-song/177101/Co-mot-gio-G-khac-vao-nam-1974.html
Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết vì Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.
Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.
150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin được chết vì Hoàng Sa”.
Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.
Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về còn Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa thì không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đòi đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích. Nhưng giờ G ấy đã không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn chìm và bị thương trên đảo. Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác.
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn!
Sự thật là như vậy, không phải không có một kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa bằng không quân. Trung Quốc hiểu điều này, và họ đã rất dè dặt khi có những động thái xâm lấn chủ quyền biển đảo Việt Nam. Họ sẵn sàng nướng các tàu tiền tiêu cổ lỗ này và bỏ mồi quay về, hoặc giữ thế cài răng lược mỗi bên giữ một nửa với VNCH. Song, khi mà tàu HQ-16 bị chính tàu ta bắn hỏng, khi mà một trận không tập nhấn chìm toàn bộ các tàu Trung Quốc, thì họ đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
Câu trả lời cho vấn đề này, có lẽ xin nhường lời cho người phi công anh hùng Nguyễn Thành Trung: Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác.
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy.
tôi cũng đã gửi câu hỏi lên báo giáo dục.nhưng cũng chưa có hồi âm chính đảng.mong báo giáo dục trao đối lại với tác giả:(anh trên)
nguồn của Linh Nguyễn FB
18 nhận xét:
Đi tìm sự thật thực ra là một công việc vô ích vì sự thật sẽ tự tìm đến với chúng ta ,chỉ cần chúng ta có tâm tìm kiếm !
Nguyễn Linh
Bản quyền thuộc về Blog Tìm Lại Sự Thật ,khi đưa lại bài từ blog mong các bạn ghi rõ nguồn !
Bình luận đăng lên phải có chứng cứ rõ ràng ,không nên đăng những thông tin sai sự thật hay những bình luận có nội dung nhục mạ !
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không quân lớn thứ 3 thế giới còn mải mê đem bom đi oạnh tạc miền Bắc, các vùng nông thôn miền Nam, nghe đên TQ đã hồn bay phách lạc rồi thì còn hơi đâu mà đánh Hoàng Sa.
Trả lờiXóaBạn nói đùa ,oanh tạc miền bắc ,giết hại là người Việt Nam là người Mỹ ,lúc đó máy bay của không lực Việt Nam Cộng Hòa đang sẵn sàng chiến đấu ở các sân bay đề phòng trung cộng tấn công bao vây bờ biển
Xóalính ngụy chê thịt tàu và ham thịt máu đỏ da vàng người việt
XóaBài viết xạo . vào thời thời điểm 1974 thì quân viện của MỸ cho VNCH đã bị cắt giảm . Trong lúc đó trong đất liền thì CS Hanoi làm áp lực thì lấy gì dồn hết sức đi đánh các hải đảo ? Đổ cho VNCH để che lấp đi tội của Hanoi dâng Hoang Sa cho TQ . Lúc đó sao Hanoi không lên tiếng phản đối TQ đánh Hoang Sa ?
Trả lờiXóaCác tàu chiến của VNCH không có rada trinh thám, chỉ có hệ thống liên lạc . Không hoả tiển . Máy F-5A, F-5C fully loaded bay ra thả bomb quay về chắc đáp xuống biển . Thàng viết bài nay ngồi tuởng tuợng như đánh games . Bộ bay ra rồi thả bomb một phát là trúng liền chắc, và không them bay lòng vòng tìm mục tiêu tránh rada hay phòng không .
Thứ nhất là quanh vù HS ấy toàn bộ là lãnh thổ của không lực ta ,nói nhanh cho nó vuông là không lực VNCH vẫn kiểm soát bầu trời miềm nam thì làm gì có cái chuyện chúng ta cần đến tránh phòng không .
XóaThứ 2 ,về lực lượng hải quân thì chúng ta mạnh hơn trung cộng lúc đấy ,tại sao thua ?
Thứ 3 ,tại sao bè lũ chính khách VNCH lại phản bội chúng ta ?
Đừng nhắc đến VC trong vấn đề nayfduf chúng ta ghét họ đi chăng nữa vì họ chẳng dóng vai nào trong đây ,xin nhớ rằng là nếu công hàm phản đối mà có hiệu lực thì chỉ có thể nói rằng quân lực chúng ta trung thành với chính phủ Hà Nội hơn với Tổng thống nhân dân chúng ta trung thành hơn với TBT Lê Duẩn hơn tổng thống Thiệu nên lời nới của Thiệu thì bỏ ngoài tai còn của Lê Duẩn thì trung thành thần kỳ :)
Bạn Nặc Danh thứ 3 có thể xem đường link mà tôi đã đăng trong bài hay lọc ở đây
Xóahttp://sgtt.vn/Loi-song/177101/Co-mot-gio-G-khac-vao-nam-1974.html
Năm 1974, ngoài F5 chủ lực (tầm bay tối đa 1400/3700 km), VNCH còn có Cessna T-37 Tweet (1500km), và có thể có B57. Trong đó, phòng không của Trung Quốc gần như là con số không, với các súng phòng không từ thời Đại Chiến Thế Giới Lần Thứ Hai.
Trả lờiXóaTầu Trung Quốc không dám vào phía Tây và Nam, càng vào gần, khả năng chiến đấu của 300-400 F-5, A-37 càng tăng lên.
đúng là thể loại ngu quân sự bày đặt.
Trần Khánh Dư HQ-04. Tầu khu trục Mỹ lớp Edsall, mạnh nhất trong trận đánh này.
Trả lờiXóaBan đầu, trong WW2 tầu được đóng với nhiệm vụ đầu tiên là khu trục - hộ tống Destroyer Escort. Sau khi chuyển cho Ngụy, tầu vẫn giữ nhiệm vụ này nhưng hiện đại hoá. Choáng nước tối đa 1.590 tấn. lắp máy 6 ngàn ngựa. Tốc độ 22. Tầu dài 306 ft - 93,3 m. Tầu rộng nhất 36 ft 7 in - 11,2 m. Ngụy được Mỹ chuyển giao 2 chiếc là. DE-251 USS Camp - Trần Hưng Đạo. Năm 1975 chạy sang Philippines đổi tên là Rajah Lakandula. DE-334 USS Forster Trần Khánh Dư HQ-04, bị bắt năm 1975 đổi tên là HQ-03, quân ta dùng huấn luyện.
http://www.edsallclassveterans.org/EDSALL_CLASS_SHIPS.DOC.htm
http://www.ussslater.org/history/dehistory/history_classes.html
http://uboat.net/allies/warships/class/81.html
http://destroyerhistory.org/de/edsallclass/
http://www.destroyersonline.com/usndd/classedsa.html
Tầu có 3 tháp pháo, mỗi tháp 1 nòng 76mm bắn nhanh 20 phát phút, là 3 nòng bắn nhanh 60 phát/phút ("hải pháo 76 ly tự động"), điều khiển radar - máy tính. Đây là các pháo đa năng vừa bắn thẳng đạn xuyên vừa câu cầu vồng đạn phá. Ngoài ra, tầu có 2 pháo liên thanh 40mm, 8 pháo liên thanh 20mm, 3 ống lôi 533, 8 nòng phóng tên lửa mang bom chìm chống ngầm, và 3 giàn phóng bom chìm khác.
Đáng ra chỉ 1 tầu này cũng làm gỏi quân Tầu. Lúc đó, bắn bằng máy tính - radar là cực lỳ ưu thế so với quân Tầu, càng ưu thế hơn khi tầu có tốc độ cao. Cỡ những tầu cá nhỏ mà liều thân thì pháo liên thanh 40mm làm gỏi.
tàu chiến khi Mỹ viện trợ Cho VNCH thì tháo hết cac dan rada thì làm gì có bắn bằng máy tính mà các chiến hạm đó đóng từ thế chiến thứ 2.
Trả lờiXóavà dĩ nhiên Hanoi hoàn toàn im lặng khi TQ đánh Hoang Sa, đó là sự thật. Sự thật khác thi ben lên youtube nghe ph I nhân của ong Le Duan nói thì sẽ rõ.
Có thấy chiến hạm Mỹ cho Philippines cách đây 2 năm chưa? đồ free tji họ thao hệ thong rada quan trọng. thủy chien mà khong co rada lấy gì đánh.
máy tren lý thuy có bay xa nhưng phải con external fuel tank và fully loaded khong phai bay ra tha bomb rồi về.
quang trong là tại sao CS Hanoi vẫn áp lực trên các mặt trận để cho VNCH phải đối mặt 2 mặt trận , tra lời dum coi trước khi chưởi. Nếu Hanoi chịu ngưng chiến trong 5 năm cho VNCH dồn sức tái chiếm HS hay không?
nên trách CS Hanoi và đó là sự thật.
Thứ nhất ,HN không có đưa hải quân ra để đánh nhau với ngụy ,vì vậy nói là HN gây áp lực là cái cớ ngu ngốc . Thứ 2 là HN không đưa không quân ra để đánh ngụy ,vậy nói HN gây sức ép về đường không là ngu ngốc . Thứ 3 , ngụy xưng quân đội mình đứng hàng thứ 4 trên thế giới ,vùng biển Đông là địa bàn tác chiến chủ lực ,các tàu lớn đều trên ngìn tấn trong khi đó quân đội trung quốc chỉ có vài chiếc tàu ,về tổng trọng tải không thể so sánh được trên mọi phương diện .
XóaNếu nói đồ free thì càng nhầm nhé ,vì thế chiến thứ 2 cách hải chiến HS chỉ có mấy chục năm thôi , mấy chiếc tàu CCCP viện trợ cho VNDCCH dùng gần 50 năm rồi có sao đâu nhỉ ? trong đó thì
"au khi chuyển cho Ngụy, tầu vẫn giữ nhiệm vụ này nhưng hiện đại hoá. Choáng nước tối đa 1.590 tấn. lắp máy 6 ngàn ngựa. Tốc độ 22. Tầu dài 306 ft - 93,3 m. Tầu rộng nhất 36 ft 7 in - 11,2 m. Ngụy được Mỹ chuyển giao 2 chiếc là. DE-251 USS Camp - Trần Hưng Đạo. Năm 1975 chạy sang Philippines đổi tên là Rajah Lakandula. DE-334 USS Forster Trần Khánh Dư HQ-04, bị bắt năm 1975 đổi tên là HQ-03, quân ta dùng huấn luyện." chỉ cần một tàu này đã làm gỏi rồi .
Cuối cùng ,bạn nói có ngu không nhỉ khi mà tàu không có ra da thì đi ra biển thế quái nào được ??? Tàu VNCH không có ra đa thế mà khi quân ta thu được tàu lại nắp hoàn chỉnh từ pháo đến đồ điện tử ???
Sự thật là Mỹ-nguỵ diễn kịch bán đứng Hoàng Sa cho Trung Quốc. Sự thật là lúc đó hải quân Trung Quốc rất yếu, đa phần các tầu Trung Quốc tham chiến năm 1974 là tầu cá. Phòng không trên các tầu Trung Quốc lúc đó gần như là số không, trong khi nguỵ có phi đội máy bay ném bom lớn thứ 3 thế giới. Như thế, không có lý do nào để Trung Quốc có thể chiếm được Hoàng Sa. Trung Quốc ban đầu cũng chỉ thử, họ không tin ngay nổi là họ có thể dễ dàng lấy được quần đảo.
XóaNguỵ cử 4 tầu ra đánh 4 tầu Trung Quốc, 4 tầu nguỵ này vượt trội cả về hoả lực và mức độ tiên tiến. Trong đó có tầu bắn bằng pháo điều khiển qua radar-máy tính. 4 tầu đó chia làm 2 đội. Quân ta (nguỵ) dồn sức vào diệt một tầu quân ta (nguỵ , HQ-16). Trung Quốc dồn sức diệt một tầu quân ta (nguỵ, HQ-10 chìm), HQ-4/5 tê liệt hoả lực. Ta (nguỵ) và địch (Trung Quốc loại khỏi vòng chiến 3 trong số 4 tầu của ta (nguỵ), thì hỏi 10 đời nhà lợn không thua à. HQ-4 và HQ-5 co cẳng định chạy sang Philipines không dám về nhà, cho đến khi thấy yên yên mới dám quay đầu lộn về tây bắc.
Tham số và ảnh vũ khí hai bên.
XóaNếu như trừ đi các máy bay không hề tham chiến, chỉ tính tầu biển. Thì nguỵ đem ra 4 tầu phờ-rai-ghết Frigate Trần Bình Trọng (HQ-5), Lý Thường Kiệt (HQ-16), and Trần Khánh Dư (HQ-4), , and one corvette, Nhật Tảo (HQ-10). Trung quốc có 4 tầu rà mìn nhỏ Kronstadt, mỗi tầu dài 49 mét rộng 6 mét 271, 274, 389, 396; 2 tầu rà mìn 281, 282; (wiki gọi là tầu chống tầu ngầm, thực chất đây là các tầu rà mìn, choáng nước 390 tấn, mẫu SO-1 Liên Xô và kiểu 037 Trung Quốc.) Vũ khí của các "siêu chiến hạm" Kronstad-Class lớn nhất có 2x2=4 nòng 57mm liên thanh, phòng không, đầu đạn 2,8kg. Còn lại là 4 nòng 25mm phòng không, súng cối bắn bom chìm ( BMB-2 ASW mortars), bom chìm, giàn phóng bom chìm ( ASW rocket launchers), thuỷ lôi.... hoàn toàn không có tác dụng trong cuộc đấu pháo tầu-tầu.
Còn đây là vũ khí chính của nguỵ, không tính cái phi đội lớn thứ 3 thế giới giương mắt lên nhìn. Cũng không tính ở đây các súng 40mm trở xuống vẫn thừa sức bắn các tầu cá Trung Quốc rất hiệu quả vì bắn liên thanh. Hay các ngư lôi.
RVNS Trần Bình Trọng HQ-05. Choáng nước 2800 tấn. Pháo mũi 127mm nòng trung bình. Súng cối đa năng.Tầu có 10 nòng 40mm liên thanh phòng không, gồm 4 khẩu 2 nòng quanh đài chỉ huy và 2 khẩu hai bên sau.
RVNS Trần Khánh Dư HQ-04. Tầu khu trục Mỹ lớp Edsall. Choáng nước 1590 tấn. Tầu có 3 tháp pháo 1 nòng 76mm bắn nhanh 20 phát phút, là 3 nòng bắn nhanh điều khiển radar-máy tính. 2 nòng 40mm phòng không. 8 nòng 20mm phòng không.
RVNS Lý Thường Kiệt HQ-16. Như HQ-05.
RVNS Nhật Tảo HQ-10. Choáng nước 650 tấn, 1 pháo 76mm. 4 nòng 40mm. 6 nòng 20mm.
HQ-10 đắm, HQ-16 hỏng nặng. HQ-4 và HQ-5 hỏng nhưng vẫn chạy được, dông sang Philipines .
Tầu Khựa có 4 tầu nhỏ, mỗi tầu có 1 nòng 85mm săn tăng, 3 nòng 37mm phòng không cổ. 2 tầu to mỗi tầu 4 nòng 57mm và 4 nòng 25mm.
Số pháo chỉ so sơ sơ
ngụy
2 nòng 127mm
4 nòng 76mm, trong đó có 3 nòng bắn nhanh ("hải pháo 76 ly tự động"), đặc biệt có ngắm bắn máy tính-radar
16 nòng 40mm liên thanh
14 nòng 20mm liên thanh
Các súng nhỏ hơn không tính
Tầu Khựa
4 nòng 85mm phát một nạp đạn tay (Đ-44 bản 85mm cho hải quân).
8 nòng 57mm liên thanh (súng phòng không đầu đạn 2,8kg, liên thanh nhưng liên thanh ww2 bắn bằng kẹp đạn 4 viên nạp thủ công).
12 nòng 37mm
8 nòng 25mm
Nếu chỉ tính pháo chống tầu, thì nguỵ có 2 nòng 127mm và 4 nòng 76mm. Tầu Khựa có 4 nòng 85mm
Trần Quang Khải Frigate Class. Barnegat-class seaplane tender của Mỹ WW2.
XóaĐây là một lớp tầu của quân nguỵ. Chúng khá cổ, từ WW2, nhưng đó là các tầu to lớn gấp 7-9 lần tầu Trung Quốc, mang pháo lớn. Vì tầu Trung Quốc không có vũ khí hiện đại đáng kể, nên các tầu này của nguỵ rất uy lực. Như chúng ta đã thấy trên, Trần Quang Khải Frigate Class, có 2 Tá To Thà, chỉ huy trận đánh, đã chọn HQ-05 làm soái hạm, và từ đó bắn hỏng cái còn lại HQ-16. Đây là lớp tầu lớn nhất của hải quân nguỵ và số lượng tầu trong lớp cũng không nhỏ. Khi chuyển cho hải quân nguỵ, các tầu pháo phần lớn trang bị chống ngầm, như các giàn phóng bom chìm, nhưng vẫn để lại sornar. Các tầu này phần lớn được đóng cuối WW2, phục vụ Hải Quân Mỹ năm 1944, năm 1949 chuyển vào Biên Phòng Mỹ, năm 1971 chuyển cho nguỵ sau khi tháo bớt vũ khí chống ngầm không cần thiết và cũng đã quá lạc hậu.
Phờ-rai-ghết Frigate được hiểu là các tầu chiến cỡ trung bình có nhiệm vụ đối kháng tầu-diêt-tầu. Chúng nhỏ hơn các tuần dương hạm Cruiser (kiểm soát vùng đại dương), chiến đấu hạm BattleShip (đối kháng tầu-diệt-tầu với các tầu chiến mạnh nhất. Các Frigate làm nhiệm vụ ven bờ và trên các biển nhỏ như biển Đông nhà ta. Có thể hiểu, Frigate là "tiểu Cruiser", cùng nhiệm vụ nhưng nhỏ hơn tuần dương hạm. Như vậy, dùng tầu trong trận đánh này là hợp lý và nó quá mạnh so với Trung Quốc.
Các tầu này trước là lớp tầu Barnegat-class seaplane tender của Mỹ WW2, đặt hàng 41 tầu, đóng xong 35 tầu. Seaplane tender còn có tên là seaplane carrier, là một loại tầu sân bay. Chúng không có đường băng, mà chở theo các máy bay đậu nước. Nhiệm vụ của chúng là bảo vệ và cung cấp dịch vụ cho các máy bay đó, chính vì thế mà các tầu này khá lớn và rất mạnh về vũ khí.
Khi chuyển cho nguỵ thì tầu đã có một số thay đỏi so với ban đầu. Ngoài cấu hình vũ khí, thì tầu choáng nước nhiều hơn chút, tăng lên 2800 tấn, gấp 8-9 lần tầu Trung Quốc tham chiến. Dài cả tầu 94,72 mét. Rộng nhất 12,52 mét. Tầu có 2 trục đẩy, máy 6000 ngựa. Tốc độ 18. Tầm xa tối đa 6 ngàn hải lý. Vũ khí chính của tầu là pháo đa năng 127mm, vừa bắn thẳng đạn xuyên vừa câu cầu vồng bắn đạn phá, vừa đối kháng tầu-diệt-tầu, vừa bắn phá trên bờ. Trước đây tầu có tối đa 4 pháo như thế, sang Việt Nam có 1 nòng và thay bằng tháp pháo mang súng cối 81mm.
Lớp tầu này của nguỵ có những tầu sau (mình chưa kiểm lại đã đủ chưa).
RVNS Trần Quang Khải (HQ-02), USS Bering Strait (AVP-34)
RVNS Trần Nhật Duật (HQ-03), USS Yakutat (AVP-32)
RVNS Trần Bình Trọng (HQ-05), USS Castle Rock (AVP-35). USCGC Castle Rock (WAVP-383)
RVNS Trần Quốc Toản (HQ-06), USS Cook Inlet (AVP-36)
RVNS Phạm Ngũ Lão (HQ-15), USS Absecon (AVP-23)
RVNS Lý Thường Kiệt (HQ-16). USS Chincoteague (AVP-24) 1944-1946 . 1948-1971 tầu thuộc biên phòng Mỹ ( United States Coast Guard)USCGC Chincoteague (WAVP-375).
RVNS Ngô Quyền (HQ-17). USS Wachapreague (AGP-8)
RVNS Nhật Tảo HQ-10. USS Serene (AM-300). Admirable-class minesweeper.
XóaTầu rà mìn được đóng trong WW2. Sau WW2 tầu nghỉ, năm 1964 tầu được hiện đại hoá và chuyển cho nguỵ, vũ khí khi chuyển cho nguỵ thay đổi chút để phục vụ như tầu khu trục.
Tầu choáng nước 650 tấn. Dài : 184 ft 6 in 56.24 m ; rộng nhất : Beam : 33 ft (10 m) ;
Máy đẩy 2 × ALCO 539 diesel engines, 1.710 shp (1,3 MW). 2 trục đẩy.
tốc độ 14,8.
Biên chế 104 người.
Vũ khí chính: 1 pháo 76mm nòng dài. 6 pháo phòng không 20mm; 4 nòng pháo liên thanh 40mm. Tầu có trang bị vũ khí chống ngầm như giàn phóng bom chìm, ray phóng bom chìm, thuỷ lôi.
Tầu khu trục, destroyer. Ban đầu có tên là Torpedo destroyer. Đây là các tầu ban đầu dùng để chặn các tầu phóng ngư lôi Torpedo , thường là tầu nhỏ chạy nhanh. Về sau này các tầu khu trục được hiểu là các tầu đánh đuổi các mục tiêu phức tạp, không ngầm nổi.... Các tầu này đắc dụng khi đánh đuổi các tầu nhỏ, đông, chạy nhanh....
Tuy là tầu yếu nhất hạm đội, nhưng cũng to gấp đôi tầu lớn nhất bên Trung Quốc. Về bắn pháo đối kháng tầu-diệt-tầu, thì Nhật Tảo hầm hố chẳng kém gì các tầu mạnh nhất của Trung Quốc, đương nhiên là ăn gỏi lớp Project 122bis - mã tên NATO Kronshtadt class. Chỉ riêng đám pháo liên thanh 40mm của nó đã là khủng khiếp so với đám tầu rà mìn và tầu cá Trung Quốc.
Nhật Tảo đi cùng HQ-16, bị quân Tầu Khựa và cánh Nam liên quân phục kích, tầu HQ-10 bị đắm. HQ-16 bị thương, may là đạn không nổ, thuyền trưởng tỉnh táo đi về được không chìm, mới điều tra ra được là HQ-16 trúng đạn 127mm của HQ-05.
Sau Hiệp định Paris được ký kết nếu VNCH không chủ động gây chiến trên đất liền miền Nam, xua quân dùng vũ lực đánh chiếm giành dân lấn đất, tràn ngập lãnh thổ trước thì việc gì mà phía cách mạng họ phải phản công lại? Tự mình đi gây sự trước còn đổ lỗi cho người khác à?
Xóa
Trả lờiXóahttp://hoangtran204.wordpress.com/2012/01/19/t%C6%B0%E1%BB%9Bng-ngo-du-noi-gi-v%E1%BB%9Bi-t%C6%B0%E1%BB%9Bng-le-quang-hoa-va-le-d%E1%BB%A9c-th%E1%BB%8D-vao-ngay-21-1-1973/
Bo.n" NGUY." ba^y gio*` la.i ddu*o*.c bao Thanh Nien ca tu.ng la sao ???? Kho'hie^?u tha^.t
Trả lờiXóa.http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140108/hai-chien-hoang-sa-tuyen-cao-ngay-14-2-1974-cua-chinh-phu-viet-nam-cong-hoa.aspx
vnch quá vô dụng
Trả lờiXóa