CHIẾN THẮNG 30-4 VÀ BÀI HỌC CHO TRUNG QUỐC
- Nhìn lại chiến thắng vẻ vang 30-04-1975 của dân tộc, với ý chí thống nhất hai miền Nam-Bắc mãnh liệt của hàng triệu trái tim yêu nước quật cường đã đập tan âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch với tên đầu xỏ là Đế quốc Mỹ, và trong đó không thể không nhắc đến những kẻ “chờ thời”, mưu mô, xảo quyệt đó là bọn bành trướng Bắc Kinh.
- Trong một cuộc phỏng vấn của phóng viên Pháp với Bác Hồ năm 1964, Bác đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình, đối với bọn “chủ nghĩa cơ hội” Bắc Kinh:
PV: “Ngài có nhắc tới các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, vậy thì sự giúp đỡ này có bắt nguồn sau những xung đột về ý thức hệ (conflit idiologique) giữa Liên Xô và Trung Quốc?
- Không! Nhưng những sự giúp đỡ giữa các nước anh em thì vẫn tiếp diễn, và chúng rất quý giá với chúng tôi.
PV: Hiện có một vài tư tưởng cho rằng miền Bắc Việt Nam đang ở trong hoàn cảnh khá cô lập và trên quan điểm chính trị, khó có thể tránh khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc? (thành vệ tinh của Trung Quốc)
PV: Chúng ta có thể trả lời câu hỏi này ra sao?
- JAMAIS! Không bao giờ”
- Ngay cả những nhân vật ở bên kia chiến tuyến, cũng “đi guốc trong bụng” bẽ lũ phản động Bắc Kinh:
Dương Văn Minh: “Tôi cảm ơn thiện chí của các ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc!”
ÂM MƯU CỦA TRUNG QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
Từ sau cuộc chiến Triều Tiên, giới chóp bu Trung Quốc quá hài lòng với kết cục “tốt đẹp” mà họ đã tạo dựng cho đất nước này, với những gì đẫm máu và khốc liệt nhất mà dân Triều Tiên chịu đựng, và sau đó “kịch bản” này lại được những “đạo diễn” trong bộ sậu Trung Quốc tái hiện lại ở Việt Nam. Nhưng khác với Triều Tiên dân tộc Việt Nam quá hiểu rõ bản chất thâm độc của chúng!
Cần phải biết rõ rằng, từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam có khả năng hoàn toàn giải phóng đất nước. Trong một lần tranh luận quyết liệt với Chu Ân Lai, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chia sẻ:
“Đồng chí có biết, năm 1954, khi cảm nhận được rằng, Việt Nam đã bị ép ký hiệp định Genève, tôi đã khóc ròng trên đường từ miền Bắc quay trở lại miền Nam vì biết rất rõ rằng, rồi đây máu của đồng bào tôi sẽ đổ hàng chục năm trời? Và sau đó thì các đồng chí đã thấy đó, sau hai năm theo như thỏa thuận là “hoà bình sẽ được lập lại”, máu của đồng bào tôi đã đổ cho tới bây giờ…”.
Ngay từ cái hiệp định “oan nghiệt” đối với dân tộc Việt Nam ấy. Lập trường của Trung Quốc đã khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng lại “theo chiều” với lập trường của Pháp. Đến đây thì rõ rành rành là họ đã hoàn toàn phản bội chúng ta.
Mao Trạch Động và Đặng Tiểu Bình đã thay nhau tung đòn mù gây sức ép để Việt Nam chấp nhận “kịch bản trường kỳ mai phục” mà họ đã “dày công” gài sẵn, với những lý lẽ ma mị. Tháng 11 năm 1956, chủ tịch Mao Trạch Đông nói với những người lãnh đạo Việt Nam:
“Tình trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ… nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm”.
Tháng 7 năm 1955, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình doạ:
“Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất nước nhà sẽ có hai khả năng: một là thắng và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc”.
Tháng 7 năm 1957, chủ tịch Mao Trạch Đông lại nói:
“Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có. Phải giữ vĩ tuyến 17…Thời gian có lẽ dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt.”
Nhưng chỉ với những cái lý lẽ trẻ con mà không dám nói là “ngu xuẩn” ấy thì họ cứ việc giữ lấy mà nghiên cứu trong quá trình “chờ sung rụng”. Và dân tộc ta thì quyết tâm dành độc lập theo ý chí thống nhất của riêng mình.
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, phần nào đó Trung Quốc đã vỡ mộng với cái “lưới rách” đã dàn sẵng, chứ không hoàn toàn quá đắc chí như trước, khi nhận thấy hậu phương Miền Bắc có những hành động quyết luyệt đáp trả Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, chứ không ngồi chờ “kịch bản” từ Phương Bắc gởi sang.
Nhận thấy gió đã không thổi theo chiều, chúng “vội vã” phá hoại phong trào đấu tranh vũ trang của đồng bào Miền Nam. Tháng 5 năm 1960, hội đàm với phía Việt Nam, họ nói về miền Nam Việt Nam như sau:
“ Không nên nói đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự là chính…Đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự không phải là cướp chính quyền ngay, mà cuộc đấu tranh vẫn là trường kỳ. ..Dù Diệm có đổ cũng không thể thống nhất ngay được, vì đế quốc mỹ không chịu để như vậy đâu…”
Quả thật nực cười với những quan điểm chính trị “biến thái”, “nửa vời” mà chúng moi ra trong cái hệ tư tưởng ô hợp sặc mùi thủ đoạn, để đem đi dạy cho một dân tộc quá ư thấu hiểu về hai chữ Độc Lập.
Hành động phản bội và bộ mặt phản động của chúng lại càng lộ rõ hơn, khi chúng đã ngồi chung mâm với Mỹ. Chúng đã không ngại ngần bật đèn xanh cho Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam. Tháng 1 năm 1965, qua nhà báo Mỹ Étga Xnâu , chủ tịch Mao Trạch Đông nhắn Oasinhtơn:
“Quân đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau. Đó là điều hoàn toàn rõ ràng. Chỉ khi nào Mỹ tấn công, người Trung Quốc mới chiến đấu. Phải chăng như vậy là không rõ ràng? Người Trung Quốc rất bận về công việc nội bộ của mình. Đánh nhau ngoài biên giới nước mình là phạm tội ác. Tại sao người Trung Quốc phải làm như vậy? Người Nam Việt Nam có thể đương đầu với tình hình.”[1]
Câu nói của thủ tướng Chu Ân Lai với tổng thống Ai Cập A. Nátxe ngày 23 tháng 6 năm 1965, do ông Môhamét Hátxenen Hâycan, người bạn thân thiết và cố vấn riêng của tổng thống A. Nátxe kể lại là một bằng chứng hùng hồn:
“Mỹ càng đưa nhiều quân vào Việt Nam thì chúng tôi càng vui lòng vì chúng tôi biết rằng chúng tôi nắm chúng trong tay, chúng tôi có thể lấy máu chúng. Nếu Ngài muốn giúp đỡ người Việt Nam thì cần khuyến khích Mỹ ném càng nhiều lính Mỹ vào Việt Nam càng tốt”[2]
Trung Quốc không từ mọi thủ đoạn, mà còn tích cực giúp Mỹ phá hoại luôn cả mọi hành động thống nhất ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Khi trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 khóa 8 Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1956. Nhưng những người cầm quyền Trung Quốc lại muốn thành lập một cái gọi là Mặt trận nhân dân thế giới do họ khống chế hòng gây rối phong trào phản chiến nhân rộng khắp thế giới của ta:
“Cần phải thành lập Mặt trận thống nhất thế giới rộng rãi nhất chống đế quốc Mỹ và tay sai…Tất nhiên Mặt trận đó không thể bao gồm họ (Liên Xô) được…”
Điệu đặc biệt khi cuộc kháng chiến của dân tộc ta lên đến cao điểm, thì Trung Quốc chẳng ngại chơi bài ngửa, với những hành động giả giả, thật thật, hòng đạt được mưu đồ của mình.
Trong cuộc đàm phán với phía Việt Nam tháng 4 năm 1968, phía Trung Quốc thừa nhận rằng Tuyên bố ngày 28 tháng 1 năm 1967 của Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà về việc đàm phán với Mỹ đã gây ảnh hưởng tốt: “Ngay đồng minh của Mỹ, cả Đờ Gôn cũng đòi chấm dứt ném bom không điều kiện”. Nhưng họ vẫn cho rằng:
“Lúc này Việt Nam chấp nhận đàm phán chưa phải là thời cơ và trên tư thế cao, ta đã nhân nhượng một cách vội vã”.
Trắng trợn hơn, ngày 9 tháng 10 năm 1968, một nhà lãnh đạo Trung Quốc đã gặp Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Việt Nam tại Bắc Kinh và yêu cầu báo cáo với lãnh đạo Việt Nam rằng họ coi việc Mỹ chấm dứt ném bom miền bắc Việt Nam là “sự thoả hiệp của Việt Nam và Mỹ”, “là một thất bại lớn, tổn thất lớn đối với nhân dân Việt Nam giống như cuộc đàm phán ký Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954 là một sai lầm”; họ đề nghị phía Việt Nam “nên để cho Mỹ bắn phá trở lại khắp miền bắc, làm như vậy là để Mỹ phân tán mục tiêu oanh tạc, đồng thời cũng chia sẻ bớt khó khăn cho miền Nam”.
Và khi không đạt được ý muốn, chúng đã dùng chiêu bài mặc cả. Trong cuộc gặp Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Việt Nam nói trên, phía Trung Quốc còn trắng trợn vu khống Việt Nam đàm phán với Mỹ là do “nghe lời của Liên Xô” và yêu cầu phía Việt Nam lựa chọn:
“Hoặc là muốn đánh thắng Mỹ thì phải cắt quan hệ với Liên Xô, hoặc là muốn thoả hiệp với Mỹ, dùng viện trợ của Trung Quốc đánh Mỹ để đạt mong muốn đàm phán với Mỹ thì sự viện trợ của Trung Quốc sẽ mất hết ý nghĩa của nó”.
Ngày 17 tháng 10 năm 1968, bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị gặp đại diện Việt Nam thông báo tuyên bố của những người lãnh đạo Trung Quốc về cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ:
“Lần này nếu các đồng chí chấp nhận bốn bên đàm phán tức là giúp cho Giônxơn và Hămphơrây đoạt được thắng lợi trong bầu cử, để cho nhân dân miền Nam Việt Nam vẫn ở dưới sự đô hộ của đế quốc Mỹ và bù nhìn, không được giải phóng, làm cho nhân dân miền Nam Việt Nam còn có khả năng bị tổn thất lớn hơn…Như vậy giữa hai Đảng và hai nước chúng ta còn cần nói chuyện gì nữa?”.
Đe doạ cắt quan hệ giữa hai Đảng là một thủ đoạn trắng trợn, một sức ép lớn nhất của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam.
Đi đôi với việc đe doạ bằng lời lẽ thô bạo là việc đe doạ bằng hành động thực sự. Năm 1968, khi bàn vấn đề viện trợ cho Việt Nam trong năm 1969, những người cầm quyền Bắc Kinh đã giảm kim ngạch viện trợ hơn 20% so với kim ngạch viện trợ năm 1968. Hơn thế nữa, tháng 8 năm 1969 họ trắng trợn nói:
“Thế Việt Nam đánh hay hoà để Trung Quốc tính việc viện trợ?”
Và câu trả lời thẳng từ phía ta dành cho họ:
“Sự nhiệt tình của một nước xã hội chủ nghĩa đói với một nước xã hội chủ nghĩa khác là xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ nghĩ nhiệt tâm là có hại. Nếu các đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ thì chúng tôi có thể đỡ hy sinh 2 hay 3 triệu người…Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản”
CHIẾN THẮNG 30-04-1975
Nhận thấy đã không còn quyền định đoạt trong ván bài. Họ đã vét chút vốn liếng còn lại của cái dự án bị phá sản kia, khi “lén lút” đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, rồi giăng “thiên la địa võng” ở Cam-bốt mà chờ thời.
Và đến tận những ngày cuối cùng của cái Chính quyền bù nhịn mà Mỹ dựng nên kia, chúng còn âm mưu cấu kết với Việt Nam Cộng Hòa để đánh lén ta. Theo hồi ký các tướng tá của quân đội Sài Gòn như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, và cựu dân biểu Lý Quý Chung, thì sáng ngày 28/4, tướng tình báo Pháp Francois Vanussème đã tới gặp Dương Văn Minh và đề nghị kêu gọi Trung Quốc đem quân can thiệp để cứu quân đội Sài Gòn đang trong cơn nguy kịch. Một nhân viên ngoại giao Trung Quốc đề nghị quân đội Sài Gòn hãy cố thủ, án ngữ Vùng 4 Chiến thuật, hứa hẹn Trung Quốc sẽ đem quân đánh vào biên giới miền Bắc Việt Nam để giải vây. Tướng Minh vốn đã được Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam thông qua em trai là Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, đại tá QĐNDVN) và gia đình đã thuyết phục từ trước, đã từ khước và nói: "Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”.[3]
Và cuối cùng đến Henry Kissinger cũng phải nhận định rằng "Hà Nội chỉ chiến đấu với một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản Việt Nam, chiến thắng vào năm 1975, chính là mối đe dọa chiến lược to lớn đối với Trung Quốc còn hơn đối với Mỹ”.
Nguồn trích dẫn:
[1] Ét-ga Xnâu: "Cuộc cách mạng lâu dài" Nhà xuất bản Hớt xin xơn, Lân đơn, 1973, tr. 216
[2] Mô-ha-mét Hát-xe-nen Hây-can: "Những tài liệu từ Cai-rô" Nhà xuất bản Phia-ma-ri-ông, Paris, 1972, tr. 238
[3] Nguyễn Hữu Thái. Hồi ức “Dương Văn Minh và tôi” năm 2008
Nguồn http://hoangsa.org/forum/
thật thâm thúy, cảm ơn bạn
Trả lờiXóaeach time i used to read smaller content that
Trả lờiXóaalso clear their motive, and that is also happening with this paragraph which I
am reading now.
Feel free to surf my web site www.chinasouthern.es